Văn chương là cuộc gọi hợp đàn (Đọc Nguyễn Ngọc Thiện, Văn & Đời, NXB Hội Nhà văn Hà Nội 2021)

 Ma Văn Kháng

(Đọc Nguyễn Ngọc Thiện, Văn & Đời, NXB Hội Nhà văn Hà Nội 2021)

1. Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân. Câu này là của Tăng tử, một học trò xuất sắc của Đức Khổng tử. Đại để ý tứ của câu này diễn nôm ra là: Người quân tử dùng văn chương để  tụ hội, kết giao bạn bè, hỗ trợ nhau  cùng phát triển.

Chẳng dám nhận mình là người quân tử,  chỉ là  hoạt động trong cùng một lĩnh vực văn hóa tinh thần, nhưng  cũng có thể nói, tụ hội,  kết nghĩa bạn bè là cái quy luật đã thành  nêp sống, thành văn của mấy anh em văn chương chúng tôi rồi. Tôi và PGS , TS Nguyễn Ngọc Thiện là thế ! Tình bạn thân thiết  giữa chúng tôi đã có từ lâu. Chứng cứ là gần đây nhất, cách đây chỉ độ nửa năm, khi bắt tay vào  khởi thảo công việc làm cuốn sách Văn và đời này, anh đã có ý mời tôi cùng đồng hành. Anh cùng làm cho vui nhé. Không tốn phí lắm đâu. Có gì tôi em sẽ  trợ giúp. Lời khích lệ mới cảm động làm sao! Chỉ tiếc tôi tuổi đã cao, đã quá hiểu thế nào là công việc trước tác, nên đành ngậm ngùi  chịu cảnh  lực bất tòng tâm.

Xa hơn thì chúng tôi quen thân nhau từ lúc nào nhỉ?  Lần giở ký ức, thì biết  rằng, bài viết đầu tiên của anh với tác phẩm của tôi đã xuất hiện từ cuối năm 1990, tức là đã hơn hai mươi năm trước. Còn hướng dẫn các học trò làm Luận văn Thạc sĩ về tác phẩm của tôi thì anh đã là người thầy của 20 nghiên cứu sinh, khởi thủy từ năm 2003 xa tít cách đây và  kéo dài cho đến năm 2018. Thế đấy, đời văn của tôi cho đến nay có 4 nghiên cứu sinh là Luận án Tiến sĩ. May mắn 3 trong số đó là được sự hướng dẫn của Nguyễn Ngọc Thiện.  Luận án đầu tiên là của Tiến sĩ Đỗ Phương Thảo nhan đề Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng , bảo vệ năm 2007 tại Viện Văn học, đạt  kết quả giỏi. Luận án thứ 2 là của Tiến sĩ Lê Thị Lệ Thủy nhan đề Hồi ký Văn học của Nhà văn, bảo vệ tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đạt kết quả xuất sắc, năm 2017. Phong cách tiểu thuyết Ma Văn Kháng là tên Luận án thứ 3 là của Tiến sĩ Dương Thanh Hương, bảo vệ năm 2018 tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, đạt kết quả xuất sắc.

 Nói đến các Luận án Tiến sĩ, trong phạm vi chứng kiến của tôi, thì nói thật cho đến giờ, tôi vẫn bị ám ảnh vì cái cảm giác vô cùng kính nể về một công cuộc lao động trí óc nặng nhọc không thể kể xiết của các bạn nghiên cứu sinh. Bốn năm! Ít nhất là bốn năm dùi mài kinh sử. Bốn năm trời mê man phờ phạc cả người vì cả mấy vạn trang sách của đối tượng. Ăn với sách. Ngủ với sách. Chơi với sách. Mà nói về các cực nhọc của các nghiên cứu sinh là để nói đến  cáí vất vả còn hơn nữa trong lao động trí não của ông thầy, người hướng dẫn vạch đường. Công trình biết lấy chi cân! Vậy nên nếu tính ra, kể từ lúc Nguyễn Ngọc Thiện tiệm cận tác phẩm của tôi, để chỉ lối dẫn đường cho học trò của mình, thì tôi và anh đã quen hơi bén tiếng với nhau từ ít nhất là cuối thế kỷ trước rồi. Chả ai bắt anh phải chọn tác phẩm của tôi làm đối tượng nghiên cứu. Anh tự do tuyệt đối. Tôi cũng không chủ động yêu cầu. Vậy nên chỉ có thể nói là do đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, mà chúng tôi gần gụi nhau, trở nên thân thiết với nhau, nói rộng ra  là do cái duyên văn tự, cái duyên tiên thiên vững bền.  

2. Công việc văn chương vốn cực nhọc, trong đó, theo thiển nghĩ của tôi, sáng tác cực nhọc một, thì phê bình nghiên cứu còn cực nhọc gấp hai, gấp ba. Minh chứng đơn giản nhất là từ  quan niệm riêng của mình. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Văn năm 1963, được mời mà tôi đã đành phải khước từ, không dám  bước chân vào công việc của nhà nghiên cứu phê bình văn chương. Thêm nữa tôi có thực tiễn của tôi. Tính ra thì vì trách nhiệm với bạn bè và công việc nên  mấy năm qua cũng có viết được dăm bảy bài gọi là phê bình lý luận. Nhận viết mà ngại ngùng! Đọc cả mấy trăm trang sách của bạn bè đến mờ cả mắt, vắt óc ra được nghìn chữ mà mỗi hàng chữ là một lần run rẩy, như tự mình bóc trần mình ra, phơi mình ra trước công luận.

Phê bình nghiên cứu là định giá. Mình là cái gì, cầm cái thước đo nào mà dám định giá người khác? Định giá cho đúng đâu có đơn giản. Phải có bản lĩnh. Hay nói hay, dở nói dở. Thiên hạ có ai thích chê bai. Động chạm đâu có ít. Thiếu gì chuyện oán hận nhau suốt đời  vì một lời chê bai.Vậy là phải có bản lĩnh  dựa trên công tâm và can đảm. Mà muốn có công tâm thì trước hết phải trên tường thiên văn, dưới tường địa lý, giữa hiểu lòng người. Riêng đối với văn chương còn khó hơn. Khó lắm! Có được một bài phê bình hay khó lắm so với có được một áng văn miêu tả trần thuật, một bài thơ hay.

Năm 2009, tôi xuất bản cuốn tiểu thuyết Gặp gỡ ở La Pan Tẩn. Thế là tôi đã có bốn cuốn viết về đề tài miền núi. Tất nhiên, tôi thích cả 4 cuốn. Nhưng Nguyễn Ngọc Thiện chỉ chú ý đến ba cuốn Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải  Gặp gỡ ở La Pan Tẩn. Riêng cuốn Một mảnh trăng rừng, anh gần như bỏ quên, trong khi tôi rất thích nó từ chủ đề tới nội dung đặc điểm dân tộc tính. Trong bài viết về ba cuốn tiểu thuyết trên, anh khen cuốn Gặp gỡ ở La Pan Tẩn vận dụng thành công các thủ pháp nghệ thuật hiện đại. Còn cuốn Đồng bạc trắng hoa xòe , anh chê tôi có lúc còn chưa thoát khỏi nhược điểm của lối viết nhà văn là người toàn tri, biết tất. Tôi đành chịu nhận xét đánh giá của anh.  Cũng như tôi hoàn toàn chấp nhận đánh giá của các Luận văn, Luận án do anh hướng dẫn, về cái được cái chưa được, cái hay, cái dở của tôi. Tôi biết đó là ý kiến riêng của các bạn nghiên cứu sinh, tất nhiên tôi cũng hiểu, chúng cũng  mang dấu vết tư duy nghiêm túc tâm huyết, khoa học, có lý có tình của chính anh. Riêng về tôi, anh đã đọc cả vạn trang. Còn cả chục tác giả khác nữa. Mà đâu chỉ có đọc không thôi. Thế mới thật đáng kính nể cái sức làm việc phi thường của anh.

Thế đấy, chỉ cần nhìn khối lượng các bài viết phê bình và danh sách các Luận văn Thạc sĩ, Luận án Tiến sĩ mà anh hướng dẫn thành công, cũng là đủ  để thốt lên lời cảm phục. Là có thể nhận ra, anh là nhà phê bình lý luận hội đủ những phẩm chất quý giá nhất của nghề nghiệp. Anh yêu văn chương như một thiên tính. Anh theo đuổi nó một lòng một dạ say mê như với một tình nhân.  Anh có phẩm tính của một nghệ sĩ. Anh ham học và được đào tạo rất cơ bản Anh là một nhà khoa học cẩn trọng, nghiêm cẩn, chỉn chu, đức độ và khiêm nhường. Tôi vinh dự được là một trong các đối tượng nghiên cứu phê bình của anh. Tôi may mắn được hưởng trọn vẹn cái tài cái đức của anh!

3. Cuốn sách Nguyễn Ngọc Thiện- Văn và Đời phản ánh công sức lao động chữ nghĩa nhọc nhằn và hiệu quả mấy chục năm của anh. Cũng là nơi anh thể hiện tình yêu, niềm trân trọng của anh với cuộc đời, với văn chương. Anh là tác giả cả một khối lượng lớn những công trình sưu tầm nghiên cứu có giá trị. Đã có mấy người bỏ công sức ra, quan tâm làm việc này như anh! Anh yêu quý văn chương tới mức nâng niu văn chương như một báu vật. Nói thế vì trong tổng kê hoạt động văn học của anh, có cả một mảng sách nghiên cứu sưu tầm  hết sức công  phu. Lặn lội trong kho tàng văn học của ông cha, đào xới, chọn lọc, gạt đi lớp bụi thời gian, làm sáng lên các tinh hoa vĩnh cửu, công việc vừa đòi hỏi một tài năng xuyên thấu và một công năng lao động bền bỉ. Công việc vừa có ý nghĩa đóng góp một xác quyết có tính học thuật, vừa thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của anh, một nhà nghiên cứu khoa học nhân văn.

 4.  Văn chương dĩ hội hữu. Văn chương là chốn hợp đàn. Nguyễn Ngọc Thiện- Văn và Đời là bức chân dung anh thông qua nét bút của hàng trăm bạn bè. Nhà văn có nhiều bạn bè thật. Tất thẩy, cả trăm người, kể từ các bậc trưởng lão trong làng văn tới các bè bạn đồng nghiệp cùng trang lứa, các học trò, các bạn đọc, ai ai cũng một lòng quý mến trân trọng anh. Anh là người sống rất có tình.

Đọc đến đây, lại nhớ lần được đến thăm bà cụ thân sinh ra anh ở làng Kẻ Nành, quê hương của Hoàng hậu Ngọc Hân, vùng đất cổ của kinh thành Thăng Long xưa. Nhớ dàn hoa thiên lý xanh mát tỏa bóng trên vuông sân gạch. Nhớ lắm cả cái không khí âm âm tối, thơm hương trầu cay trong căn nhà, sau bà mẹ khăn nhung đẹp đoan trang, cổ điển, hiền hòa, sáng bóng những tấm bảng vàng    tôn vinh 5 đời khuyến học, tam đại phu thê,  Nhị quang. Một nền nếp gia phong có căn cơ sâu rễ bền gốc trong đạo nghĩa cổ truyền! Nhân bất học bất tri lý. Người có học là người có đức, là người sống thân ái với mọi người. Là người dễ được mọi người thích gần gụi, sẻ chia.

 PGS.TS, nhà văn, nhà báo, nhà lý luận Nguyễn Ngọc Thiện là người có tấm lòng thơm thảo với bạn bè. Tôi nghe nhiều người nói vậy. Nếu thế thì một lần nữa câu nói sau đây của người xưa là chính xác: Kết giao bằng hữu giữa những người quân tử thơm như hương quế thơm…

M.V.K

 

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter