LÝ KIM KHOA
(Nghiên cứu, sưu tầm và giới thiệu)
Người Tày ở Việt Nam nằm trong nhóm ngôn ngữ Tày- Thái. Ở Yên Bái, người Tày có chữ viết riêng, gọi là chữ Nôm Tày. Cư dân Tày- Thái cổ đã góp phần sáng tạo nền văn hóa bản địa ở vùng Nam phía Bắc v à Bắc Đông Dương, thường gọi là văn hóa Nam Á hay văn minh sông Hồng. Trước kia, các dân tộc Tày, Nùng, Sán Chay (Cao Lan), Bố Y, Lào, Lự đều là con cháu của tộc người Tày- Thái cổ. Trong quá trình biến thiên của lịch sử, qua những bước thăng trầm, do ảnh hưởng của điều kiện khách quan và chủ quan, các tộc người dần dần tách khỏi cộng đồng Tày- Thái cổ, phát triển theo chiều hướng riêng và trở thành các tộc người biệt lập như ngày nay. Truyền thuyết và truyện cổ dân gian đồng bào Tày cho rằng, cái nôi hình thành người Tày là vùng Cao Bằng, cái nôi hình thành người Thái là vùng Mường Lò (Yên Bái). Hiện nay, theo góc nhìn Dân tộc học cho thấy: Trong quá trình phát triển tộc người, nhóm ngôn ngữ Tày- Thái ngày càng có xu hướng xích lại gần nhau trên phương diện văn hóa (văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần), đó là các quá trình phát triển tộc người. Trong đó, có một số tộc người có sáng tạo chữ viết riêng như Tày, Thái, Nùng, Sán Chay. Chữ của người Tày, Nùng, Sán Chay gọi là chữ Nôm Tày- Nùng, Sán Chay (gốc sáng tạo từ chữ Hán cải biên); riêng tộc người Thái có chữ Thái “Xư Tay”, thuộc hệ thống chữ Brahmic (gốc từ Ấn Độ cổ).
Như nhiều tư liệu đã được các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian công bố cho thấy, trong quá trình hình thành và phát triển, văn tự người Tày nói chung, chữ nôm Tày nói riêng, trước hết phải là sự sáng tạo của bản thân dân tộc Tày (nhóm ngôn ngữ Tày- Thái), sau nữa còn có ảnh hưởng của văn tự cổ Choang (Tày) bên Tàu (thường gọi là tục tự Choang cổ) và văn tự Nôm Việt. Nhờ thế, chữ Nôm Tày đã trở thành một hệ thống ngôn ngữ song hành cùng tiếng Việt. Thực tế cho thấy, chữ Nôm Tày rất đa dạng, được sử dụng ở nhiều địa phương, trên nhiều lĩnh vực và ở nhiều tài liệu sách vở thuộc nhiều kiểu loại văn bản khác nhau. Vì thế, nó đã trở thành đối tượng quan tâm, sưu tầm của một số nhà nghiên cứu khoa học xã hội, tri thức dân gian. Các nhà nghiên cứu này đã ít nhiều chú ý đến lịch sử hình thành và mô tả các kiểu cấu trúc chữ Nôm Tày trên những tác phẩm Nôm Tày đã được phân loại (Lượn, Then, Truyện, Thơ). Văn bản văn học chữ Nôm Tày ngày nay còn lại ít ỏi, vẫn lưu truyền nhưng thế hệ trẻ người Tày Yên Bái ít người biết đọc, biết viết. Các tác phẩm về Lượn của người Tày gồm có Lượn cọi, Lượn hồng nhan tứ quý, Lượn Tam Nguyên, Lượn nàng ơi. Về hát Then, người Tày có những khúc hát như: Pụt; Tục cầu tự; Lượn Nàng Hai; Lượn Nàng Én; Khảm Hải… Truyện thơ có những tác phẩm tiêu biểu như: “Chiêu Đức”; “Lưu Đài- Hán Xuân”; “Thạch Sanh”…, đặc biệt tiêu biểu là “Pác Dảo”. “Pác Dảo” tiếng Tày dịch nghĩa ra là: Một trăm điều răn dạy.
Nằm trong bem (hòm) sách cúng viết bằng chữ Nôm Dao của ông Đặng Văn Kim (xã Bảo Ái- Yên Bình- Yên Bái) có khoảng hơn 30 cuốn, trong đó có cuốn sách cổ viết bằng chữ Nôm Tày “Một trăm điều răn dạy”, gọi là “Pác Dảo”. Ông Kim cho biết, cuốn sách này có được là do một người bạn Tồng người dân tộc Tày tặng cho ông nội từ hồi còn chưa đắp hồ thủy điện Thác Bà, được ông giữ đến bây giờ. “Pác Dảo” có hơn 15 trang giấy dó đã cũ, mất bìa và bị mọt đục mất nhiều chữ. Đây là một trong những tác phẩm văn học cổ có giá trị sâu sắc, chưa từng tồn tại ở vùng người Tày Yên Bái. Nội dung cuốn sách ca ngợi việc đề cao đạo đức truyền thống trung hiếu, tiết nghĩa, tính cần cù và trí sáng tạo thông minh của người dân lao động, những tấm gương sáng, những mối tình đẹp; đả kích những đồi phong bại tục, đấu tranh xấu xa của xã hội cũ, lên tiếng đấu tranh cho tự do… Theo các cụ cao niên người Tày vùng phía Đông hồ Thác Bà tỉnh Yên Bái, một trăm điều răn dạy tức là một trăm điều dạy bảo người ta tu dưỡng đạo đức, nhân cách, trách nhiệm, tư tưởng tình cảm, nghĩa vụ của từng bản thân với cộng đồng; duy trì trật tự xã hội, dòng họ từ trên xuống dưới. Từ rất xa xưa, người Tày đã có cái nhìn hết sức tỉnh táo cho sự tồn tại của trật tự cộng đồng. Người Tày đã xây dựng một xã hội phải có nhân cách, nếp sống chuẩn mực và phù hợp với vị trí của từng cá nhân. Gia đình phải hiếu thuận, anh em phải yêu thương nhau. Ngoài xã hội mọi người phải giúp đỡ lẫn nhau, phải trung thành tham gia bảo vệ đất nước. Cuốn “Pác Dảo” được tác giả người Tày khuyết danh xưa viết vào khoảng thế kỷ XVII (thời phong kiến ở Việt Nam) được ông Đặng Văn Kim dịch ra như sau:
Đối với bậc vua hay tộc trưởng, muốn được người dân kính trọng, tin yêu, xây dựng cơ nghiệp lâu bền thì phải thương dân, họ hàng, nhất là phải yêu đất nước, hết lòng với dân chúng, họ tộc. Lấy dân là gốc, là nền tảng của quốc gia đại sự, làm vua hay làm tộc trưởng phải có nhân tâm, hết lòng chăm lo cho dân chúng, họ tộc thì mới được người dân kính trọng, tin yêu. “… Rộng lượng yêu dân như con/ Bụng suy nghĩ cho tròn, chớ khác”.
Đối với các bậc trung thần, đã làm quan một đất nước thì trên phải hết lòng phò tá cho vua, dưới phải yêu thương dân chúng. Bậc trung thần phải hết lòng thờ phụng vua, chung vai cùng vua xây dựng cơ nghiệp đất nước, không được mưu mô phản bội. Đồng thời các bậc trung thần cũng không được cậy quyền, sách nhiễu nhân dân của mình. Trong một đất nước có vua sang, các bậc thần hiền, dân chúng đồng lòng thì thiên hạ sẽ yên ổn, thái bình, giang sơn tươi đẹp, ấm no, yên vui, hạnh phúc. “… Trung thần phải hết lòng vì vua/ Có thế thiên hạ mới hô cao vạn tuế…”.
Đối với phụ nữ, truyện “Pác Dảo” cũng dạy rằng nên rèn luyện những đức tính chăm chỉ, biết lo toan thu vén cho gia đình và hết lòng thương chồng, yêu các con. “… Mọi việc phải chăm lo chu tất/ Nấu nướng ngon miệng ắt người khen…”.
Đối với nam giới, phải có tấm lòng rộng mở, sẵn sàng giúp đỡ mọi người xung quanh, và phải chăm lo thu xếp các công việc lớn trong nhà. Ngoài ra người con trai cần phải hiếu thuận với cha mẹ, hết lòng chăm sóc cho cha mẹ lúc về già ốm đau. “… Cha mẹ nuôi lớn đã nên người. Vui vẻ thờ muôn đời thân tộc…”.
Đối với mọi người nói chung “Pác Dảo” cũng khuyên rằng, không nên uống rượu nhiều, bởi rượu gây nên nhiều điều tai hại, khiến những người thân yêu bị liên lụy, có thể gây nên chết người, mọi người chỉ dùng rượu cho hưng phấn, giao lưu vui vẻ. “… Rượu vào thời nói năng vô nghĩa/ Xấu mặt hết cha mẹ, vợ con…”.
Đối với anh em ruột thịt, anh em huyết tộc không thể chia lìa, sống phải yêu thương nhau, quan tâm, hòa thuận với nhau, giúp đỡ nhau lúc khó khăn, ốm đau hoạn nạn. “… Hay dở cũng bác chú, anh em/ Làm anh có quyền huynh thế phụ…”.
Đối với tình vợ chồng, trong cuộc sống gia đình vợ chồng cần phải yêu thương, hòa thuận với nhau để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp cho con cái để người xung quanh nhìn vào sẽ rạng rỡ, mát mặt. “… Yêu gia đình ăn ở bình yên/ Vợ hiền thảo khôn ngoan đừng chửi…”.
Có thể cảm nhận thấy, “Pác Dảo” là tác phẩm ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, nhưng tác phẩm đã được cải biến phù hợp với truyền thống đạo đức gia đình, xã hội của cộng đồng người Tày. Những mối quan hệ cơ bản như: Vua, các bậc thần, phụ- tử, phu- phụ, huynh- đệ đều được “Pác Dảo” đề cập đến và nhấn mạnh, khi các mối quan hệ trở nên đẹp đẽ thì cuộc sống được ấm no, yên bình. Vì vậy, tác phẩm có ý nghĩa giáo dục nhân cách, đạo đức cao và có giá trị đối với mọi thời đại. Với bất kì cộng đồng xã hội nào, thuộc thời đại, thể chế nào… vẫn luôn luôn tồn tại nhiều mối quan hệ. Bản thân các mối quan hệ đó rất phức tạp và có sự liên quan, tương hỗ với nhau. Con người luôn phải tìm, phải học để ứng xử và dung hòa các mối quan hệ đó.
Có thể thấy, văn bản Nôm Tày và các tác phẩm văn học chữ Nôm Tày xuất hiện được lưu truyền bằng hình thức truyền khẩu từ trước đó. Đến khi có chữ Nôm Tày và được các nhà tri thức ghi chép và sự sáng tạo không ngừng, ý thức gìn giữ của cộng đồng người Tày thì những tác phẩm đó đã trở thành tác phẩm văn học, được lưu truyền, bảo tồn bằng hình thức văn bản. “Pác Dảo” là một trong những tác phẩm đó. Truyện thơ “Pác Dảo” phản ánh chân thực cuộc sống sinh động, các hoạt động văn hóa, lễ hội, văn hóa tâm linh, những phong tục tập quán và tín ngưỡng dân gian đầy bản sắc; những câu chuyện chất chứa tính đạo lý, thiện ác phân minh, tất cả nhằm hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội tốt đẹp, thuận hòa và khát vọng vươn lên… “Pác Dảo” cũng là nguồn tài liệu quan trọng, phục vụ nghiên cứu lịch sử, văn hóa, xã hội của địa phương, của mỗi tộc người nói chung, tộc người Tày nói riêng.
Văn học Nôm Tày từ khi xuất hiện cũng đã mở ra cho nền văn học viết của người Tày một bước tiến mới, đặc biệt là góp phần minh chứng thêm việc dân tộc đa số nói chung và tộc người Tày nói riêng đã có nền văn hóa từ lâu đời. Cho dù có sự ảnh hưởng của văn hóa bên ngoài nhưng văn hóa của người Tày nói riêng, văn hóa Việt nói chung vẫn giữ được bản sắc của mình và xây dựng, phát triển nền văn học chung. Thành tựu văn học Nôm Tày làm phong phú thêm nền văn học đại đa số các dân tộc ở địa phương và của Việt Nam.
L K K