Ký của NGUYỄN HIỀN LƯƠNG
Từ buổi sơ khai của lịch sử nước Việt, vùng đất có núi lớn, sông dài nằm giữa trục Tây Bắc- Đông Bắc và Trung du Bắc bộ, sau này được đặt tên là Yên Bái, đã có con người sinh sống, trầm tích bao bí mật của quá khứ. Việc phát hiện di cốt người có niên đại 8 đến 14 vạn năm và nhiều công cụ bằng đá tại hang Hùm (Lục Yên) chứng minh vùng đất Yên Bái là địa bàn sinh tụ của người Việt cổ từ thuở hồng hoang. Các phát hiện thạp đồng ở Đào Thịnh, Hợp Minh (Trấn Yên), trống đồng ở Khai Xuân (Lục Yên), Mông Sơn (Yên Bình), Phù Nham (Văn Chấn) và các công cụ bằng đồng khẳng định vùng đất Yên Bái là một phần lãnh thổ nước Văn Lang thời Hùng Vương dựng nước, một địa bàn cư trú của cư dân Lạc Việt, góp phần tạo nên nền văn hóa đồ đồng rực rỡ trước công nguyên. Khi Thục Phán lên ngôi, lấy hiệu là An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc, chia nước thành hai quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Quận chia thành các huyện, mỗi huyện tương đương một địa bàn sinh sống của một bộ lạc. Yên Bái thuộc địa phận huyện Tây Vu- quận Giao Chỉ. Lịch sử và dư địa chí Yên Bái trong lịch sử và bản đồ nước Việt chính thức có từ ngày đó. Theo các nhà nghiên cứu, vùng đất cơ bản của Yên Bái thời kỳ này là khu vực thành phố Yên Bái và một phần huyện Yên Bình, huyện Trấn Yên ngày nay. Các huyện, thị khác đều là những phần đất được sáp nhập vào Yên Bái qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Đến thời Lý, vùng đất Yên Bái thuộc Châu Đăng, thời Trần thuộc lộ Quy Hóa, thời Lê, thời Nguyễn đều nằm trong phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa. Tên gọi Yên Bái không biết ai đặt và có từ bao giờ nhưng chắc chắn nó mang ý nghĩa của chữ “Yên”, chỉ sự “yên lành”, “yên tĩnh”, “yên vui”, “yên bình”. Người Yên Bái, từ buổi ban đầu khai phá vùng đất hoang vu, dựng nhà, lập trại, quần tụ thành làng, thành bản đã mang khát vọng yên bình. Các thế hệ kế tiếp nhau xây dựng nên một miền quê đầm ấm, yên vui và một nền văn hóa đa sắc màu dân tộc cùng những trang sử vẻ vang. Sang thời Pháp thuộc, vào cuối thế kỷ XIX, khi tiến hành “bình định”, Pháp xếp vùng đất Yên Bái vào các đạo quan binh và thực hiện chế độ quân quản. Khi hoàn thành “bình định”, để dễ bề cai trị và khai thác thuộc địa, Pháp phân chia lại địa giới hành chính và lập các tỉnh mới trong cả nước. Ngày 11/4/1900, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ra Nghị định thành lập tỉnh Yên Bái gồm 3 đơn vị cấp huyện (châu, phủ) là Trấn Yên, Văn Chấn, Văn Bàn, lấy làng Yên Bái, tổng Bách Lẫm, phủ Trấn Yên làm thị xã tỉnh lỵ. Sau đó, Pháp chuyển thêm châu Lục Yên (tỉnh Tuyên Quang) và châu Than Uyên (tỉnh Lai Châu) vào tỉnh Yên Bái. Từ đó đến nay, Yên Bái với tư cách là một đơn vị hành chính cấp tỉnh trực thuộc trung ương đã có lịch sử tròn 125 năm. 125 năm qua, cũng như các tỉnh, thành khác trong cả nước, Yên Bái trải qua nhiều giai đoạn lịch sử. Từ khi tỉnh được thành lập đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 là thời kỳ đen tối nhất của Yên Bái. Suốt 45 năm, chính quyền thực dân- phong kiến cai trị bằng những chính sách cực kỳ phản động, tàn bạo. Về văn hóa- xã hội, chúng thực hiện “ngu dân”, khuyến khích các tập tục cổ hủ, lạc hậu, mê tín dị đoan, hòng kìm hãm dân Việt trong vòng nô lệ tăm tối. Chúng dùng sách báo phản động, đồi truỵ và các tệ nạn xã hội đầu độc thanh thiếu niên, hòng làm cho thế hệ trẻ tha hóa. Cả tỉnh chỉ có vài trường tiểu học, học sinh là con em quan lại, địa chủ, thổ hào nhằm đào tạo đội ngũ tay sai cho Pháp. Cả tỉnh cũng chỉ có một nhà thương ở thị xã với vài y sĩ, hộ lý, trang bị, thuốc men nghèo nàn. Bệnh sốt rét, bệnh đậu mùa, dịch tả liên tiếp xảy ra, trẻ con chết yểu, người lớn tuổi thọ thấp, một số dân tộc ít người có nguy cơ tuyệt chủng. Chúng “chia để trị”, nhằm tạo nên sự mâu thuẫn, đối đầu giữa các dân tộc và tôn giáo. Chúng đặt ra các sắc thuế dã man, bóc lột dân ta đến tận xương, tủy. Về công nghiệp, điều chúng quan tâm nhất là khai thác khoáng sản. Suốt 45 năm, chỉ xây dựng được một trạm phát điện tại thị xã Yên Bái để phục vụ các quan Pháp và chính quyền tay sai. Nông nghiệp thì một mặt chúng duy trì chế độ kinh tế phong kiến phát canh thu tô, một mặt chúng cướp đất của dân lập đồn điền. Hơn 20 đồn điền được lập ở Yên Bái, chiếm 2.978ha đất, đứng thứ 5 về đồn điền trong các tỉnh ở Bắc Kỳ lúc đó. Đất đai rơi hết vào tay quan Pháp và tầng lớp địa chủ người Việt. Nông dân không có đất trở thành người ở đợ, làm thuê. Về thương nghiệp, chúng độc quyền bán muối và bán ép rượu, thu mua nông, lâm sản của dân với giá rẻ mạt. Nỗi thống khổ của người dân phần nào được nói tới trong Á tế, Á ca: “Lại nghe nỗi Lào Cai, Yên Bái/ So muôn người như giải lũ tù/Ăn cho ngày độ vài xu/ Việc làm gian khổ công phu lạ lùng/Độc thay phong chướng nghìn trùng /Nước sâu quẳng xác, hang cùng chất xương”. Quyết không cam chịu mãi kiếp nô lệ, lầm than, nhân dân các dân tộc Yên Bái đã vùng dậy chống Pháp. Các cuộc khởi nghĩa của người Kinh, Tày, Dao Yên Bái liên tiếp diễn ra, làm cho Pháp mất ăn, mất ngủ. Đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa đêm mùng 9, rạng ngày 10/2/1930 của Việt Nam Quốc dân Đảng do chí sĩ yêu nước Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Tuy không thành công nhưng tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất, sự lẫm liệt trước cái chết của Nguyễn Thái Học và các nghĩa sĩ đã thức tỉnh lòng yêu nước của đồng bào cả nuớc, đồng thời tạo lên tiếng vang lớn trên thế giới. Nhà thơ cộng sản Pháp Louis Aragon đã phải thốt lên: "Yên Bái, đây là điều nhắc nhở ta rằng, không thể bịt miệng một dân tộc mà người ta không thể khuất phục bằng lưỡi kiếm của đao phủ"…"Đó là một dân tộc không chịu sống quỳ…”. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái sẽ mãi là một điểm nhấn của lịch sử Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời, đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Đầu những năm 40 của thế kỷ XX, Xứ ủy Bắc Kỳ đã cử nhiều cán bộ lên Yên Bái gây dựng phong trào cách mạng. Từ tháng 10/1944 đến đầu năm 1945, nhiều cơ sở cách mạng, tổ chức cứu quốc, đội du kích được thành lập tại Yên Bái. Tiêu biểu là Chiến khu Vần- Hiền Lương với Đội Du kích Âu Cơ. Ngày 7/5/1945, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập ở thị xã Yên Bái gồm 3 đảng viên do đồng chí Mai Văn Ty làm Bí thư. Ngày 30/6/1945, Ban Cán sự Đảng liên tỉnh Phú- Yên do đồng chí Ngô Minh Loan làm Bí thư được thành lập. Sự kiện trọng đại này đã tạo bước ngoặt mới cho phong trào đấu tranh cách mạng ở Yên Bái. Từ đây, phong trào cách mạng trong toàn tỉnh được đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Cán sự Đảng, phát triển nhanh, mạnh như vũ bão. Ngày 6/7/1945, lực lượng vũ trang Yên Bái ra đời làm nòng cốt cho nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Hai ngày sau, 8/7, nhân dân Văn Chấn giành được chính quyền. Tiếp đến Lục Yên, ngày 10/7, Văn Bàn ngày 5/8, Yên Bình ngày 9/8, Trấn Yên ngày 10/8. Sáng 20/8, các lực lượng vũ trang và nhân dân đồng loạt tiến vào làm chủ thị xã. Ngày 22/8/1945, chính quyền cách mạng tỉnh Yên Bái chính thức ra mắt tại sân Căng (nay là sân vận động thành phố Yên Bái), trong sự hân hoan, phấn khởi của hàng ngàn quần chúng nhân dân. Những dấu mốc trọng đại, hào hùng ấy sẽ mãi ghi trong lịch sử nước Việt.
Sau Cách mạng tháng Tám, “giặc đói”, “giặc dốt”, giặc ngoại xâm gây ra muôn vàn khó khăn, thử thách, song Đảng bộ, chính quyền và quân dân các dân tộc Yên Bái không nao núng, vững tay chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi ghềnh thác. Trong thời gian ngắn, Yên Bái đã xây dựng được hệ thống chính quyền từ tỉnh đến cơ sở, củng cố lực lượng vũ trang, chuẩn bị mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ 2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, quân dân Yên Bái kiên trì thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh” kết hợp “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, phối hợp với bộ đội chủ lực mở nhiều chiến dịch tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng. Chiến dịch Tây Bắc (1952), đã đập tan hoàn toàn phân khu Nghĩa Lộ, giải phóng Nghĩa Lộ, Văn Chấn, tiến tới giải phóng toàn tỉnh khỏi ách thống trị của quân Pháp. Ngay sau đó, Yên Bái lại dồn sức, dồn lực mở con đường huyết mạnh nối căn cứ địa Việt Bắc với chiến trường Tây Bắc. Toàn tỉnh đã huy động gần 5 vạn lượt người, với 3,6 triệu ngày công, cung cấp hơn 2.000 tấn lương thực, thực phẩm, bảo đảm thông suốt tuyến đường từ Yên Bái sang Sơn La cho bộ đội, dân công lên chiến trường Điện Biên Phủ, góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Bến Âu Lâu, đèo Lũng Lô của Yên Bái trên con đường chiến dịch đã trở thành di tích lịch sử mãi đi cùng năm tháng.
Hòa bình lập lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân Yên Bái vừa khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa kiến thiết, xây dựng tỉnh, tạo ra những biến chuyển quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày 25/9/1958, Yên Bái vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ tới thăm. Tại Lễ đài sân vận động thị xã, Bác đã ân cần dặn dò nhân dân Yên Bái đoàn kết dân tộc, tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng đời sống mới. Thực hiện lời dạy của Bác, nhân dân Yên Bái đã ra sức thi đua làm cho quê hương Yên Bái ngày càng vững mạnh, giàu đẹp. Lễ đài, nơi Bác đứng nói chuyện đã được tỉnh Yên Bái xây dựng thành Khu tưởng niệm Bác, uy nghi, đẹp đẽ, linh thiêng, sẽ mãi là nơi hàng tháng, hàng năm cán bộ, nhân dân đến dâng hương, báo công với Bác.
Với tinh thần “Điện phải đi trước một bước”, năm 1960, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác Bà trên sông Chảy, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội của Yên Bái nói riêng và cả vùng Tây Bắc nói chung. Để có đất xây dựng công trình, 8.913 hộ dân với hơn 53.000 nhân khẩu phải chia tay bản quán thân thuộc gắn bó bao đời đến nơi ở khác. Cùng với cuộc đại di dân là sự di dời hơn 35.000 hài cốt, hàng chục nhà thờ, đền thờ, công sở, bệnh viện, kho tàng và nhiều công trình công cộng khác để hiến đất cho Nhà nước xây dựng công trình Thủy điện. Sự hy sinh đất đai, nhà cửa, vườn tược cho đứa con đầu lòng của ngành Thủy điện Việt Nam ra đời, mãi mãi là niềm vinh quang, tự hào của người Yên Bái.
Những năm kháng chiến chống Mỹ, người Yên Bái vừa kiên cường chống trả cuộc chiến tranh phá hoại của không lực Hoa Kỳ, vừa tích cực tăng gia, sản xuất để chi viện cho chiến trường miền Nam. Thị xã Yên Bái là một trong những trọng điểm ném bom hủy diệt, cả thị xã tan hoang, không ngôi nhà nào còn nguyên vẹn song quân dân Yên Bái vẫn “Tay cày, tay súng”, “Tay búa, tay súng”, kiên cường bủa lưới lửa phòng không tiêu diệt 115 máy bay Mỹ, là tỉnh bắn rơi nhiều máy bay Mỹ nhất quân khu, trong đó có chiếc máy bay thứ 800 và 801 của Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc, được Bác Hồ gửi thư khen ngợi. Với tinh thần “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, tỉnh Yên Bái đã đóng góp 29 vạn tấn lương thực, 15 vạn tấn thực phẩm. Gần 25.000 thanh niên Yên Bái tình nguyện nhập ngũ, trong đó có 4 tiểu đoàn mang tên Yên Ninh, tham gia chiến đấu trên khắp các chiến trường miền Nam, góp phần cùng cả nước làm nên đại thắng mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Những chiến công, đóng góp, hy sinh lớn lao ấy của người Yên Bái không thể nào mất trong lịch sử nước Việt.
Sau năm 1975, đứng trước bao khó khăn của hậu quả chiến tranh và thời kỳ bao cấp, song dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, đồng bào các dân tộc Yên Bái tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng; đoàn kết, năng động, sáng tạo, phát huy tiềm năng, thế mạnh, huy động mọi nguồn lực thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau gần 40 năm đổi mới, tỉnh Yên Bái đã có sự phát triển vượt bậc. Năm 2024, tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt 7,91%, đứng thứ 7/14 tỉnh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ, đứng thứ 25/63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Về nông nghiệp- nông thôn, trong bối cảnh nhiều diện tích nông nghiệp bị ảnh hưởng nặng do thiên tai gây ra vẫn tiếp tục tăng trưởng 3,56%, đứng thứ 5/14, đồng thời là điểm sáng của vùng Trung du và miền núi phía Bắc về thực hiện mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Toàn tỉnh đã có 78,8% số xã đạt chuẩn nông thôn mới dẫn đầu các tỉnh trong vùng Tây Bắc, cao gấp 1,5 lần so với bình quân chung của vùng; 5/9 huyện, thị, thành phố đạt chuẩn nông thôn mới. Yên Bái cũng đã xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo chuỗi giá trị, gồm vùng quế trên 80.000 ha, vùng cây ăn quả gần 10.000 ha, vùng nguyên liệu gỗ rừng trồng trên 220.000 ha, vùng măng bát độ trên 6000 ha, vùng Sơn Tra trên 10.000 ha, vùng dâu tằm trên 1000 ha, vùng lúa đặc sản trên 3.000 ha. Công nghiệp Yên Bái cũng phát triển khá, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2024 đạt 18.400 tỉ đồng tăng 8,7% so với năm 2023, đứng thứ 8/14 tỉnh trong vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ. Nhiều tập đoàn kinh tế lớn đã và đang đầu tư vào Yên Bái như: Tập đoàn BB Group, Tổng công ty Viglacera, Flamingo Holding Group, Tập đoàn Erex Nhật Bản, Tập đoàn Vingroup, Sun Group, Tập đoàn Euro Window, Tập đoàn APEC, Tập đoàn dược phẩm Nippon Joki, Tập đoàn Bảo Lai, các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp may Hàn Quốc… Toàn tỉnh hiện có 3.417 doanh nghiệp, 823 hợp tác xã, 5.812 tổ hợp tác. Các sản phẩm công nghiệp, sản phẩm OCOP của Yên Bái đã có mặt trên 90 quốc gia và vùng lãnh thổ. Giá trị xuất khẩu hàng hóa năm 2024 đạt 425 triệu USD.
Về hạ tầng giao thông, với vị trí là đầu mối và trung độ của các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, cùng với cao tốc Nội Bài- Lào Cai qua địa bàn, tỉnh đã đầu tư xây dựng nhiều tuyến đường và 7 cây cầu vượt sông Hồng, kết nối các địa bàn trong tỉnh và liên vùng, tạo đà thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội. Yên Bái còn là một trong số ít các tỉnh đi đầu cả nước về xây dựng giao thông nông thôn, tạo nên diện mạo mới của nông thôn Yên Bái. Phát huy tiềm năng, thế mạnh vốn có, những năm gần đây, Yên Bái đẩy mạnh phát triển các loại hình du lịch sinh thái, trải nghiệm, mạo hiểm, nghỉ dưỡng, tâm linh, cộng đồng; đưa du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn và góp phần xóa đói, giảm nghèo. Năm 2024, Yên Bái đón gần 2,15 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế trên 270.000 lượt khách, doanh thu đạt 1.790 tỉ đồng. Hiện Yên Bái đã có một bản đồ du lịch phong phú, hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Về danh thắng, Yên Bái nổi tiếng với Khu du lịch danh thắng hồ Thác Bà với diện tích trên 19.000 ha, trên 1.300 hòn đảo bao bọc bởi các dãy núi hùng vĩ, nhiều hang động kỳ thú, được gọi là “Hạ Long trên núi”. Cánh đồng Mường Lò- cảnh quan đứng thứ nhì Tây Bắc. Ruộng bậc thang Mù Cang Chải với 2.300 ha được xếp hạng di tích- Danh thắng đặc biệt cấp Quốc gia, được báo chí nước ngoài đánh giá có vẻ đẹp ngoạn mục nhất thế giới. Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu (Văn Yên), khu bảo tồn loài và sinh cảnh Chế Tạo (Mù Cang Chải), đỉnh Tà Chì Nhù, đỉnh Tà Xùa (Trạm Tấu) trong tốp 15 đỉnh núi cao nhất Việt Nam, được coi là “Thiên đường Mây”, với những thảm hoa cỏ Mật rồng, rừng Rêu và rừng hoa Đỗ quyên vô cùng hấp dẫn. Thác Háng Tề Chơ, Làng Nhì, (Trạm Tấu) ở độ cao 1.800m so với mực nước biển, ẩn mình trong lòng núi, tuôn trào dòng thác trắng xóa từ trên cao xuống như một dải lụa trắng nổi bật giữa đại ngàn hùng vỹ. Rừng chè Shan tuyết cổ thụ hàng trăm năm tuổi ở Suối Giàng, Sùng Đô (Văn Chấn) có độ cao gần 1.400m. Các nguồn nước khoáng nóng thiên nhiên tại Văn Chấn, Trạm Tấu chứa hàm lượng lớn các khoáng chất có lợi cho sức khỏe như sắt, canxi, magiê, natri, kali, độ nóng 35oC- 45oC rất hấp dẫn cho du lịch nghỉ dưỡng. Hoa Tớ dày, hoa Ban, hoa Sơn tra và các loài hoa dại, mỗi khi bừng nở lại tạo nên vẻ đẹp vừa dân giã vừa lộng lẫy đầy sức quyến rũ.
Yên Bái còn là một miền di sản, nhiều di sản văn hóa- lịch sử đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, được Bộ VH-TT và DL công nhận di sản văn hóa- lịch sử Quốc gia: Đền Đông Cuông cùng Lễ hội đền, thờ Mẫu Đệ nhị Thượng ngàn trong tục thờ Mẫu Tam phủ của người Việt; Nghệ thuật Xòe Thái, Nghệ thuật Hát Then Tày, Nùng, Thái; Lễ hội Gầu Tào, Lễ Cúng rừng, Nghệ thuật Khèn, Nghệ thuật dùng sáp ong tạo hoa văn trên vải của người Mông; Chùa tháp Hắc Y- đền Đại Cại, Đền Mẫu Thác Bà, Khu di tích lịch sử Nguyễn Thái Học, Lễ đài sân vận động thành phố Yên Bái; Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại thị xã Nghĩa Lộ, duy nhất của các tỉnh Tây Bắc thuộc hệ thống chi nhánh Bảo tàng Hồ Chí Minh. Yên Bái cũng đã có một hệ thống cơ sở du lịch, nghỉ dưỡng khang trang vừa hiện đại vừa thân thiện với môi trường và mang đậm bản sắc dân tộc: Khu du lịch sinh thái Ruby bên hồ Thác Bà thơ mộng, sở hữu không gian xanh thoáng mát cùng nhiều trải nghiệm vui chơi cực kỳ hấp dẫn. Le Champ Tú Lệ tọa lạc giữa không gian tráng lệ- hùng vỹ của cánh đồng lúa nếp Tú Lệ và đỉnh Pú Luông chót vót quanh năm mây trắng vờn quanh. Garrya Mù Cang Chải nằm giữa các triền ruộng bậc thang, mùa nước đổ như những dải lụa bạch bay lượn mềm mại, mùa lúa chín như những nấc thang vàng rực rỡ lên tận trời cao, không chỉ là nơi nghỉ dưỡng cao cấp mà còn là điểm đến lý tưởng cho những trải nghiệm độc đáo. An Lavita Resort (Trạm Tấu)- Khu nghỉ dưỡng giữa non ngàn có kiến trúc độc đáo, thân thiện môi trường, bể bơi khoáng nóng, phòng tập gym đa năng. Khu du lịch suối khoáng nóng Cường Hải (Trạm Tấu) được ví như một “tiểu Bali” giữa miền sơn cước. Ngoài ra, phải kể rất nhiều Homestay của các hộ dân, một hình thức lưu trú du lịch thân thiện, bình dân, trải nghiệm thiên nhiên, phong tục, văn nghệ dân gian và ẩm thực dân tộc độc đáo...
Với khát vọng mãnh liệt, Yên Bái đã và đang ra sức phát huy mọi nội lực, tranh thủ mọi ngoại lực, từng bước thực hiện thành công mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020- 2025 đặt ra: Xây dựng Yên Bái phát triển nhanh, bền vững theo hướng “Xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc”; củng cố quốc phòng- an ninh, bảo đảm an toàn xã hội, tạo môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư phát triển kinh tế- xã hội giàu mạnh và nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân. 125 năm qua, với những gì đã làm được, Yên Bái đã tạo nên dấu ấn riêng trong lịch sử và dư địa chí Việt Nam. Yên Bái cũng tạo nên phong cách con người Yên Bái:“Thân thiện, nhân ái, đoàn kết, sáng tạo, hội nhập”. Với cá nhân tôi, có thể nói: Không có Yên Bái không bao giờ có tôi. Cha, mẹ tôi người từ Hưng Yên, người từ Thái Bình lên Yên Bái kiếm kế sinh nhai. Yên Bái đã xe duyên cho cha, mẹ tôi nên vợ, nên chồng, sinh thành 6 anh em chúng tôi. Yên Bái là nơi chôn rau, cắt rốn, nơi tôi cất tiếng khóc chào đời, nơi đầu tiên tôi được nhìn thấy con người, bầu trời và mặt đất. Cơm gạo Yên Bái nuôi lớn, mái trường Yên Bái nuôi khôn, đất trời, sông núi Yên Bái bồi đắp lên tâm hồn tôi. Mỗi ngọn núi, dòng sông, khe suối, gốc cây, ngọn cỏ Yên Bái thấm đẫm trong tôi những kỷ niệm cuộc đời. Yên Bái luôn là tổ ấm của tôi. Tôi đã đi qua cuộc chiến tranh tàn khốc, đã tới nhiều miền quê xinh đẹp của đất nước nhưng Yên Bái mãi là nơi tôi tìm về. Yên Bái với tôi, đúng như lời thơ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: “Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm/ Đất Nước là nơi ta hò hẹn/ Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm/… Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần đất nước…”.
Trước yêu cầu tạo thế và lực cho đất nước vươn mình, cất cánh bay lên kỷ nguyên mới- kỷ nguyên dân giàu, nước mạnh, sánh vai với các cường quốc 5 châu- chúng ta phải tiến hành cuộc cách mạng sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đảm bảo thực sự “Tinh- Gọn- Mạnh- Hiệu năng- Hiệu lực- Hiệu quả”. Đó là một tất yếu lịch sử trong hành trình đất nước. Đó cũng là khát vọng của con người hôm nay, của cả những người đã “ngã xuống”, hóa thân vào đất nước, trong các cuộc chiến tranh vệ quốc. Tôi tin rằng, mai này, con cháu chúng ta sẽ còn đưa đất nước đi xa hơn, tới những chân trời mơ ước.
Lịch sử tỉnh Yên Bái có thể dừng lại ở con số 125. Tên tỉnh Yên Bái có thể không còn, nhưng đất trời Yên Bái, sông núi Yên Bái, con người Yên Bái, dòng máu Yên Bái, tâm hồn Yên Bái, tình yêu Yên Bái, 125 năm Yên Bái không thể mất, không bao giờ mất. Nó sẽ vào hòa dòng chảy của nước Việt như dòng sông ra biển lớn, để tạo nên những trang sử mới, mạnh mẽ hơn, vẻ vang hơn. Song, làm sao tôi có thể quên, quên làm sao được những tháng, năm Yên Bái. Căn cước hành chính có thể thay đổi còn căn cước-trái tim tôi mãi mãi mang tên Yên Bái.
Yên Bái, tháng 4/2025
N.H.L
* Bài viết có tham khảo tư liệu của Cổng Thông tin điện tử tỉnh Yên Bái
Tin khác