• Loading...
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Yên Bái tập trung đẩy mạnh đưa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII vào cuộc sống
 
Người lính Yên Ninh
Ngày xuất bản: 24/12/2024 2:30:55 SA

Truyện ký của NGUYỄN HIỀN LƯƠNG

 

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân- 1968 của ta làm cho địch bất ngờ, choáng váng. Song sau đó chúng tổ chức lại lực lượng phản công ta dữ dội ở cả thành thị lẫn nông thôn, gây cho ta nhiều tổn thất. Miền Nam lúc này rất cần sự chi viện của miền Bắc. Đáp ứng nhu cầu của chiến trường, tỉnh Yên Bái gấp rút thành lập Tiểu đoàn Yên Ninh II, kêu gọi thanh niên các huyện, thị trong tỉnh xung phong nhập ngũ. Hoàng Kim Thành, dân tộc Tày, ở xã Vũ Linh, Yên Bình, mới bước sang tuổi 17, tuy hoàn cảnh gia đình neo đơn, bố mẹ già yếu, các em nhỏ dại, song vẫn viết đơn tình nguyện lên đường. Chỉ chưa đầy một tháng kêu gọi, tháng 2/1968, Tiểu đoàn Yên Ninh II đã được thành lập tại thôn Loan Phượng, xã Tân Hương, Yên Bình, gồm 717 cán bộ, chiến sĩ. Thành được biên chế vào Tiểu đội 1, Trung đội 2,  Đại đội 3. Hội đủ quân, tiểu đoàn khẩn trương bước ngay vào huấn luyện. Cùng với luyện tập các kĩ thuật, chiến thuật quân sự, các đại đội đều tổ chức hoạt động văn thể tạo đời sống tinh thần cho tân binh. Với vóc dáng cao ráo, nước da trắng, khuôn mặt thanh tú, lại có năng khiếu ca hát, Thành được chọn vào đội văn nghệ của đại đội. Anh say sưa luyện tập bài hát “Bài ca Yên Ninh” của nhạc sĩ Tuấn Long để truyền dạy cho đồng đội. Mỗi khi Thành cất lên tiếng hát: “Anh em ta ơi! Ninh Thuận thiết tha đang chờ mong. Ra đi, ra đi chứa chan trong lòng ý chí diệt Mỹ. Xa quê hương ta ra đi càng thiết tha yêu bản làng. Ta hy sinh không ngại ngần vì miền Nam yêu thương…” cả đại đội lại vỗ tay không ngớt. Trung đội trưởng Phạm Tiến, đã từng tham gia chiến đấu tại chiến trường Lào, còn chọn Thành đóng thành em gái Lào để múa Lăm vông. Nhìn Thành nuột nà trong điệu Lăm vông mềm mại, uyển chuyển không ai nghĩ trên thao trường anh lại thể hiện hết sức mạnh mẽ các động tác kĩ thuật, chiến thuật quân sự. Sang tháng huấn luyện thứ 3, Tiểu đoàn trưởng Thái Doãn Tân, tập trung toàn tiểu đoàn quán triệt: “Yên Ninh I huấn luyện 5 tháng mới đi B nhưng Yên Ninh II chúng ta, do yêu cầu gấp của chiến trường nên thời gian huấn luyện rút xuống còn 3 tháng. Huấn luyện 3 tháng, cũng đủ năng lực, trình độ kĩ thuật, chiến thuật để các đồng chí ra trận được rồi. Cũng như học bơi chỉ cần biết bơi là được, còn có bơi nhanh, bơi giỏi hay không, người bơi phải tự học hỏi, rút kinh nghiệm trong thực tế”. Nghe quán triệt, ai cũng nghĩ sắp đến ngày Nam tiến. Hoàng Kim Thành đã tưởng tượng ra những cánh rừng Trường Sơn bạt ngàn, in đầy dấu dép của người lính trên đường ra trận. Vẫn biết là rất gian khổ, hiểm nguy nhưng Thành nghĩ, các chú, các anh lớp trước vượt qua được thì há gì mình lại không thể vượt qua.

Thời gian trôi rất nhanh, chả mấy chốc đã sắp hết tháng huấn luyện thứ ba. Nhiều gia đình đã lên tận đơn vị xin cho con về nhà tranh thủ cưới vợ trước khi đi B. Có người còn viết sẵn cả giấy cam đoan, tổ chức đám cưới xong sẽ dẫn con lên trả cho đơn vị ngay. Thủ trưởng tiểu đoàn tiến thoái lưỡng nan. Đồng ý thì lo mà không đồng ý lại áy náy. Việc trọng đại của đời người, lại không biết bao giờ mới trở về, thậm chí không biết có ngày trở về không? Đành giao hẹn, nếu không trở về đơn vị đúng hạn sẽ coi như bỏ ngũ, đơn vị sẽ báo cho địa phương. Song, chiến sĩ nào cũng trở về đơn vị đúng phép. Tuần cuối cùng, cái tên Tân Hương trở thành địa chỉ quan tâm nhất với các gia đình có con, em là lính Yên Ninh II. Mọi người ồ ạt về Tân Hương thăm con, thăm chồng, thăm người yêu. Có cô mười tám, đôi mươi, mới làm đám cưới, có chị trung tuổi đã vài con. Đơn vị không có nhà khách, sinh hoạt tối xong, từng đôi, từng đôi một, đút hai mảnh ni nông vào túi quần dắt nhau lên đồi chè hợp tác. Một ni nông trải trên thảm cỏ giữa hai luống chè để nằm, một ni nông phủ lên cây chè để che, vậy là thành phòng hạnh phúc. Tiểu đội trưởng, trung đội trưởng, thậm chí đại đội, tiểu đoàn biết cũng phải tặc lưỡi lờ đi. Bà con nhân dân Tân Hương còn thông thoáng hơn, không ai không phàn nàn, ca thán. Thời chiến mà. Thế là, có chị ở ba ngày, có chị năm ngày, bảy ngày, có bà mẹ chồng còn áp tải con dâu, bao giờ dâu báo đã chắc chắn “đậu” rồi mới cho về. Các anh chồng thì dặn vợ đặt tên con là Tân, Hương, hay Loan, Phượng, hay Yên, Ninh. Toàn những cái tên liên quan đến thôn Loan Phượng, xã Tân Hương, Tiểu đoàn Yên Ninh. Không thấy Thành xin về cưới vợ, cũng không có ai tới thăm, Trung đội trưởng Tiến, hỏi: Chú mày có định xin về cưới vợ không đấy? Thành gãi đầu, gãi tai trả lời: Báo cáo Trung đội trưởng, em “Ba khoan” đã, chiến thắng về mới tính…

7 giờ ngày 7/5/1968, Tiểu đoàn đội ngũ chỉnh tề tại sân bóng Tân Hương. Tiểu đoàn trưởng Thái Doãn Tân ra mệnh lệnh hành quân ngay. Tiểu đoàn rời Tân Hương, ngược Quốc lộ 7, vượt đèo Thao sang Văn Yên, rồi lại xuôi về Trấn Yên, sang Hán Đà, Yên Bình. Đến nơi, đã thấy bà con nhân dân tập trung tại nhà thờ Hán Đà đợi đón bộ đội về nhà nghỉ đêm. Thành hỏi B trưởng Tiến: Sao lại đi vòng vèo thế ạ?- B trưởng e hèm, bảo: Cảnh giác. Đánh lạc hướng gián điệp nằm vùng.

Tiểu đội Thành được phân công nghỉ tại nhà một cụ trùm đạo cạnh sông Chảy. Mấy ngày hành quân dã ngoại, không được tắm giặt nên hạ ba lô, bộ đội rủ nhau đi tắm một trận thật đã chia tay dòng sông quê hương. Buổi tối, cụ bà luộc nồi khoai lang to đãi bộ đội. Cụ ông thì bảo: “Mọi ngày cơm tối xong, ông bà ngồi trước ban thờ Chúa đọc kinh đến chín giờ tối mới đi ngủ. Nhưng tối nay chỉ nằm trên giường nhẩm kinh để các cháu ngủ ngon, sáng mai hành quân. Cầu chúa lòng lành ban cho các cháu bộ đội lên đường được bình an, may mắn, đánh thắng bọn giặc Mỹ”. Ăn khoai xong, bộ đội xin phép trải chiếu nằm ngủ ngoài hiên nhưng cụ ông bắt vào giường trong nhà ngủ. Tiểu đội trưởng Công phải đứng ra xin phép ngủ ngoài hiên cho mát cụ mới đồng ý. Đêm đầu tháng, trăng non tỏa ánh sáng bàng bạc khắp sân vườn. Có tiếng tắc kè kêu. Thành đếm đi, đếm lại, chỉ có bảy tiếng. Ở nhà cha vẫn bảo, tắc kè kêu chẵn tức là đủ tiếng thì trời sẽ mưa, còn kêu lẻ tức là thiếu tiếng thì trời nắng. Xuất quân ngày nắng chắc là may rồi. Trong nhà, các cụ chủ nhà đã thôi nhẩm kinh từ lâu. Xung quanh cũng đã có nhiều tiếng ngáy, Thành vẫn thao thức. Từ đây về Vũ Linh chỉ hơn chục cây số nhưng Thành không thể về để chào bố mẹ. Thương bố mẹ quá. Sáng mai thôi! Cuộc ra đi này không biết có ngày trở lại hay là ra đi mãi mãi. Chiến tranh không thể không có hy sinh nhưng ai cũng sợ hy sinh thì lấy đâu người đánh Mỹ. Nghĩ vậy, rồi Thành chìm vào giấc ngủ. Sáng sau, 5h30, còi báo thức vang lên dồn dập. Bộ đội nhanh chóng dậy làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng, thu dọn quân tư trang, đeo ba lô ra tập hợp tại bãi đất trống trước cửa nhà thờ Hán Đà làm lễ xuất quân. Ai cũng mặc quân phục mới, trên vành mũ cối dán băng giấy ghi dòng chữ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược!”. Lễ xuất quân diễn ra nhanh chóng nhưng trang nghiêm. Đồng chí Nguyễn Ngọc Cừ, Bí thư Tỉnh ủy thay mặt nhân dân toàn tỉnh trao cờ “Quyết chiến, quyết thắng” và chúc đoàn quân Yên Ninh II hoàn thành nhiệm vụ, chiến thắng, trở về. Chính trị viên phó Tiểu đoàn Từ Ngọc Công, quê Bảo Ái, thay mặt cán bộ, chiến sĩ Yên Ninh II nhận cờ của tỉnh. Tiếp theo, binh nhì Phương Văn Lương, người Ngọc Chấn, thay mặt các chiến sĩ lên tuyên thệ. Lương hùng dũng bước lên kì đài, đứng nghiêm, mắt hướng cờ, dõng dạc: “Thay mặt cán bộ chiến sĩ Yên Ninh II, tôi xin thề trước lá cờ vinh quang của Tổ quốc! Vì miền Nam ruột thịt, vì Ninh Thuận yêu thương quyết chiến, quyết thắng. Dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí, không bỏ ngũ, không đầu hàng, phản bội. Thề chưa hết giặc chưa về quê hương”. Rồi Lương, tay cầm khẩu AK, vừa vung cao lên trên đầu vừa hô lớn “Xin thề! Xin thề! Xin thề!”. Phía dưới, cả người ra đi và người đưa tiễn cùng vung tay lên hô “Xin thề! Xin thề! Xin thề!”. Lời thề loang dọc triền sông Chảy, dội vào núi Cao Biền, vọng lại như hồn thiêng núi sông Yên Bái tiễn đưa con em Yên Bái lên đường ra trận. Tiểu đoàn trưởng Thái Doãn Tân chạy ra giữa hàng quân, hô “nghiêm”, ra mệnh lệnh hành quân. Đoàn xe ô tô tải 15 chiếc đỗ nối đuôi nhau trên đường đợi sẵn. Mỗi trung đội lên một xe. Xe mui trần, trên thùng kê ghế băng dài cho bộ đội ngồi. Ai cũng thích ngồi ở cạnh thành xe để ngắm cảnh quê hương trước lúc đi xa. Xe nào cũng đổ một hồi còi dài thay lời các chiến sĩ Yên Ninh II chào quê hương Yên Bái. Nhân dân Hán Đà đứng chật hai bên đường chen nhau vẫy tay, ai cũng chúc bộ đội đi may mắn mà mắt ai cũng đỏ hoe. Trên xe, các chiến sĩ cũng vẫy tay từ biệt bà con. Gần bốn giờ chiều, đến Từ Sơn, Bắc Ninh. Địa phương bố trí cho tiểu đoàn nghỉ đêm tại hai làng quan họ. Cơm chiều xong, 7 giờ tối có còi tập trung. Cán bộ xã đến từng đại đội thông báo: “Hôm nay hai làng quan họ chúng tôi đãi các chiến sĩ Yên Bái trên đường ra trận một canh hát. Để tiếng hát quan họ theo chân các chiến sĩ vượt Trường Sơn ra trận, đánh thắng kẻ thù”. Mở đầu là "Khách đến chơi nhà", tiếp là "Mời trầu", "Ngồi tựa mạn thuyền", "Cây trúc xinh", "Chàng buông vạt áo em ra", "Cò lả", "Còn duyên", kết là "Người ơi người ở đừng về". Bộ đội, ai cũng xuýt xoa sao mà hay đến thế. Hết canh hát mà ai cũng dùng dằng không muốn chia tay. Đại đội trưởng phải cho bộ đội “Bài ca Yên Ninh” vừa thay lời cảm ơn, vừa để chia tay các nghệ nhân quan họ. Từ hôm sau, bộ đội bắt đầu hành quân bộ. Chủ yếu đi theo đường tắt, từ Bắc Ninh qua các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, vào Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đến Làng Ho, vượt Cổng Trời sang Lào. Cổng trời Trường Sơn là hai khối đá lớn sừng sững, chụm đầu vào nhau, ở giữa là đường rộng đủ cho một xe ô tô tải đi qua. Thành ngó sang phải, vực sâu hun hút, ngó sang trái, vách đá dựng đứng. Trên vách đá có dòng chữ: “Tim còn đập, đường không tắc”. O giao liên bảo: “Dưới hàng chữ ấy có một cái hang dùng làm lễ truy điệu sống cho công binh và thanh niên xung phong trước khi làm nhiệm vụ. Chúng mình chỉ hành quân qua, còn công binh và thanh niên xung phong phải bám trụ ở đây. Sau mỗi trận bom lại lao ra ngay phá bom nổ chậm để thông đường. Rất nhiều chiến sĩ công binh và thanh niên xung phong đã hy sinh tại Cổng Trời”. Nghe giao liên nói, mọi người đều lặng đi, ai cũng cúi đầu chào vong linh đồng đội. Sang đất Lào, thời tiết càng khắc nghiệt. Dọc đường hành quân, nhiều chiến sĩ đã hy sinh do sốt rét, lũ cuốn, cây đè, mìn gài, thám báo phục kích, máy bay ném bom. Nhưng đáng sợ nhất lại là cái đói hành hạ. Mùa mưa, đường lầy, máy bay Mỹ oanh tạc cả ngày lẫn đêm, không vận chuyển được lương thực bằng cơ giới, nhiều kho gạo trống trơn, tiêu chuẩn ăn của bộ đội rút dần xuống còn một lạng gạo/ngày. Rồi một lạng cũng không có nhưng không thể dừng hành quân. Vậy là kiếm được cái gì, ăn cái nấy. Một lần đi kiếm rau rừng, Thành dẫm phải bãi phân cầy, di chân vào đất để phân cầy rời khỏi đế giầy, bỗng lộ ra vật gì mầu nâu xẫm, bóng láng. Thành cúi hẳn xuống nhìn. Hạt gắm. Đúng là hạt gắm, bị cầy cắn nham nhở. Bỗng nhớ hồi ở nhà vào rừng nhặt hạt gắm về rang ăn. Tách lớp vỏ cứng ra là nhân, vừa bùi, vừa béo ngậy. Cầy hương rất thích ăn hạt gắm. Con cầy này chắc tham ăn, nuốt chửng cả hạt nên lại đùn ra gần nguyên xi. Thành nhặt hạt gắm lên, lấy vạt áo lau qua, đưa lên miệng nhấm thấy còn ăn được. Tìm tiếp trong đám phân cầy, được thêm hai hạt nữa. Nghĩ, quanh đây thể nào cũng có dây gắm, cuối cùng cũng phát hiện ra dây gắm, cào bới xung quanh gốc tìm thêm được tám hạt, vội mang về chia cho anh em trong tiểu đội, nhấm nháp cho qua cơn đói. Nhấm nháp xong hạt gắm, ai cũng ước hạt gạo to bằng hạt gắm để được một bữa ăn no. Tuy gian khổ, hiểm nguy nhưng không một ai sợ hãi. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã được kết nạp vào Đảng ngay trên đường hành quân. Những người lính mặt hốc hác vì đói, sốt rét, mưa nắng Trường Sơn nhưng ánh mắt nhìn lên lá cờ Đảng treo trên cành cây rừng vẫn ánh lên niềm tin mãnh liệt, lời tuyên thệ âm vang vào đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ. Một bữa, nghỉ tại Bãi khách gần cái thác lớn, giao liên bảo “Dưới chân thác nhiều cá lắm”. Đúng là cá nhiều lại bạo nữa, đứng tắm, cá rỉa cả vào người. Thành cùng đồng đội xua cho cá chạy nấp vào các hốc đá, rồi luồn tay vào bắt. Tiểu đội bắt được lưng xoong cá. Trạm giao liên lại phát cho mỗi tiểu đội một bó cải nương. Thành đem cá suối nấu với rau cải. Cả tiểu đội chan húp xì xoạt. Xoong canh cá đầy một loáng đã hết veo. Cơm xong thì trăng lên. Hành quân trong rừng già chẳng khi nào thấy trăng. Nay qua rừng khộp mới được thấy trăng nên bộ đội không ngủ ngay mà tụ tập thành từng nhóm trò chuyện, nhìn trăng đang ngoi lên từ tán rừng khộp. Ánh trăng len lỏi lọt qua khe lá, đổ xuống vạt cỏ quanh gốc cây những đốm sáng như những hoa văn màu vàng tươi nổi bật trên mặt nền màu nâu thẫm. Đã đi hết Khăm Muội, Savanakhet, Saravane, Champasak của nước bạn Lào chưa gặp đêm trăng nào đẹp như thế. Hết đất Lào, đến Trạm giao liên 257, tiểu đoàn vào Kon Tum vượt sông Pô Kô sang Gia Lai, qua Đắc Lắc, vượt sông Sêrêpôk sang Bù Đốp. Đến Tây Ninh, bộ đội nghĩ chắc tiểu đoàn sẽ bổ sung cho mặt trận Tây Nam bộ. Nhưng đến Gò Dầu lại quẹo trái sang Bến Cầu, rồi vượt lộ Sài Gòn- Nông Pênh sang SvayRieng, Campuchia, vùng đất ăn sâu vào lãnh thổ Việt Nam, giống như mỏ chim Vẹt, được bạn Campuchia cho ta mượn làm hậu cứ. Từ đây, bộ đội xâm nhập, tấn công vào các cứ điểm địch bên kia biên giới, sau đó lại rút về hậu cứ. Tưởng sẽ ở lại hậu cứ Mỏ Vẹt, bỗng hai ngày sau, tiểu đoàn được lệnh vượt biên giới. Sau ba đêm lội nước đồng Chó ngáp, ba ngày trú tại các gò tràm nổi giữa đồng, tảng sáng ngày thứ 4, tiểu đoàn tới một bãi đầm lầy rộng, xen lẫn những giồng đất cao, toàn cây tram cừ, tre, đưng, sậy, cỏ lác ngút đầu. Giao liên bảo: Đây là căn cứ bưng biền Bình Thành thuộc Đức Huệ, Long An. Bộ đội đang ngồi nghỉ, một tốp người mặc quân phục giải phóng đội mũ tai bèo, khoác súng AK, người mặc bà ba đen, cuốn khăn rằn Nam bộ, đeo xà cột đi tới. Tiểu đoàn trưởng Thái Doãn Tân vội chạy lại. Một cán bộ trung tuổi, người lực lưỡng, đội mũ tai bèo, đeo xà cột bắt tay tiểu đoàn trưởng. Hai người trao đổi gì đó với nhau một lúc, rồi tiểu đoàn trưởng ra lệnh tập trung toàn tiểu đoàn. Ổn định đội ngũ xong, tiểu đoàn trưởng hô “nghiêm”, làm động tác đằng sau quay, bước tới gần đồng chí cán bộ trung tuổi, đưa tay lên vành mũ cối chào, báo cáo: “Báo cáo đồng chí Phó Tư lệnh mặt trận, Tiểu đoàn Yên Ninh đã có mặt, sẵn sàng nhận nhiệm vụ”. Đồng chí cán bộ trung tuổi bước tới bắt tay Tiểu đoàn trưởng, mỉm cười nói: Thay mặt Bộ Tư lệnh miền, chào mừng các đồng chí Yên Bái đã tới chiến trường. Chúc các đồng chí mạnh khỏe. Bộ Tư lệnh quyết định, trừ bộ khung, từ trung đội trưởng trở lên nhận nhiệm vụ khác, quân số còn lại sẽ bổ sung cho 6 đơn vị thuộc Phân khu Bắc Sài Gòn- Gia Định gồm Tiểu đoàn 6, Tiểu đoàn 267, Tiểu đoàn 269, Tiểu đoàn 308, Tiểu đoàn 2642 và Tiểu đoàn 12 đặc công...

Hôm ấy là 5/11/1968. Từ đây, không còn phiên hiệu Yên Ninh II. Những người lính Yên Bái sau cuộc trường chinh chân trần, chí thép ròng rã suốt 5 tháng 11 ngày, qua 24 tỉnh của Việt Nam, Lào, Campuchia đã tới mặt trận, sát cánh cùng quân dân Sài Gòn- Gia Định bước vào cuộc chiến đấu chống lại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của địch. Cán bộ, chiến sĩ bịn rịn chia tay nhau bằng những cái siết tay nhau thật chặt; những cái ôm không muốn rời; những lời dặn dò dù ở đơn vị nào vẫn chiến đấu với tinh thần của trai Yên Bái; những lời chúc sống đến ngày chiến thắng; những lời hò hẹn hòa bình gặp nhau trên quê mẹ Yên Bái; những lời thề, nếu chết thì cũng chết cho hào hùng; đứa nào sống trở về phải coi bố mẹ của những đứa hy sinh như bố mẹ mình. Trung đội 2 của Thành được điều động về Tiểu đoàn 308, hoạt động tại địa bàn huyện Đức Hòa. Các chiến sĩ mới được chia về từng tiểu đội. Qua quán triệt Thành được biết, Đức Hòa chỉ cách trung tâm nội đô Sài Gòn 27km, Tiểu đoàn 308 có nhiệm vụ thọc sâu vào phía Đông Sài Gòn, đánh lấn vào các lõm căn cứ địch, vừa tiêu hao sinh lực địch vừa hỗ trợ cho đấu tranh chính trị của nhân dân. Đã có hòm thư, Thành tranh thủ viết thư về gia đình báo tin đã tới Long An. Viết thư xong, Thành nhìn ra ngoài xa, bốn bề mênh mông nước, lác đác vài cù lao, gò đất chưa bị ngập. Thành cũng như tất cả các chiến sĩ Yên Bình đều sinh ra, lớn lên ở miền núi, quen trèo đèo, vượt rừng, lội suối nay chiến đấu trên địa bàn sông nước Nam Bộ quả là một thử thách không hề nhỏ. Các anh lính cũ bảo, ở đây làm gì cũng phải đi xuồng. Nhìn ra biển nước, Thành nghĩ mình biết bơi mảng thì cũng sẽ bơi xuồng được. Không có việc gì khó, Thành hòa mình vào đơn vị mới rất nhanh, tham gia nhiều trận chống địch càn quét. Trong lần được giao nhiệm vụ phá cây cầu bắc qua kênh để ngăn chặn trận càn của địch, tổ ba người Thành, Tùng, Thám được phân công đi đầu. Đang đi khom qua bãi cây điên điển, bỗng một tràng dài AR15 bắn xối xả vào đội hình. Thành thấy mát lẹm bên má phải, rồi máu túa ra như nước chảy. Trúng ổ phục kích của địch rồi. Thành vội hướng khẩu AK về phía tiếng nổ quét một tràng liên thanh dài đáp trả, rồi mới đưa tay lên kiểm tra vết thương trên má. Thấy lùng nhùng da, thịt và máu, Thành vội cởi áo buộc vết thương rồi nhoài lên xem hai đồng đội đi trước ra sao. Chỉ kịp nhìn thấy Tùng, Thám đang nằm gục dưới bãi cây điên điển thì Thành ngất đi. Khi tỉnh lại Thành mới biết tổ ba người chỉ mình Thành sống sót nhưng đạn địch đã phạt đi phần dưới má phải cùng một nửa hàm răng dưới. Nếu viên đạn nhích lên hoặc chệch về phía sau 5cm nữa thì Thành không còn tính mạng. Tràng AK của Thành đã tiêu diệt ba tên địch, số còn lại bị tổ hai và tổ ba truy quét hết, sau đó anh em chuyển thương binh, liệt sĩ về tuyến sau. Các y tá vệ sinh, băng lại vết thương cho Thành rồi chuyển về Đội phẫu Phân khu. Tuy vết thương không quá nặng nhưng lại ở mặt, một nửa hàm bị mất nên không những khó khi khâu và băng bó mà Thành còn không ăn được. Những ngày đầu, Thành chỉ uống nước cơm cầm hơi, sau cố nuốt được ít cháo loãng. Ăn được cháo thì vết thương lại bị nhiễm trùng mưng mủ, húp cháo là húp cả mủ từ vết thương rỉ ra. Mỗi lần ăn xong, y sĩ lại phải vệ sinh vết thương nhầy nhụa mủ, máu, thịt rữa lẫn cháo. Đau buốt khủng khiếp nhưng Thành cố nén chịu. Vết thương lành dần, song Thành vẫn không ăn được cơm, xúc miếng cơm vào miệng, nhai bằng một nửa hàm, cơm bị rơi ra gần hết, lại phải nuốt chửng. Thành được cho ra Bắc làm lại hàm và vá má. Lại hành trình lội bộ. Đoàn thương binh có 35 người, mỗi ngày chỉ đi được mươi cây số. Những người bị thương nặng, giao liên phải khiêng cáng; phải giúp cả việc vệ sinh, tắm, rửa. Nhiều thương binh đau quá, cáu bẳn, mắng cả giao liên. Với giao liên nam đã cực, giao liên nữ còn cực hơn. Vậy mà không có giao liên nào nặng lời với thương binh. Thành cũng là thương binh nhưng chân tay còn lành lặn nên luôn phụ giúp giao liên chăm sóc các thương binh nặng. Ra Bắc, Thành được chuyển về Quân y viện 110- Bắc Ninh lắp hàm răng giả và phẫu thuật chỉnh hình khuôn mặt. Anh tranh thủ viết thư về nhà báo tin. Nửa tháng sau, Thành nhận được thư em trai Hoàng Minh Khai. Ngoài thông tin sức khỏe bố mẹ, Khai báo cho Thành một tin vô cùng đặc biệt. “Ở nhà bố mẹ đã cưới chị Tại cho anh. Đám cưới đầy đủ thủ tục, chỉ khác là vắng rể, em phải thay anh sang nhà gái đón dâu”. Khai còn kể, ngày anh ở miền Nam, bố mẹ bị ốm nặng, không làm được việc gì, em phải nghỉ học để ở nhà chăm bố mẹ. Chị Tại sang bảo: Em bỏ học, anh Thành biết sẽ không vui đâu. Mai đi học đi. Ở nhà chị sẽ sang chăm bố mẹ cho. Từ đấy ngày nào chị Tại cũng sang quét dọn nhà cửa, nấu cơm, giặt giũ cho bố mẹ, chẳng nề hà việc gì. Bố mẹ thấy chị chăm chỉ lại có hiếu nên liền sang thưa chuyện với bố mẹ chị Tại, xin cưới chị cho anh.

Đọc thư em trai, Thành không khỏi sửng sốt. Tại không phải là người xa lạ, mà cùng thôn Trại Máng, sinh hoạt cùng chi đoàn; hơn Thành một tuổi nhưng vóc người nhỏ nhắn, xinh xắn. Hồi ở nhà Thành cũng thích Tại song chưa dám ngỏ lời yêu. Thành cũng biết nhiều chàng trai trong xã rất thích Tại. Không ngờ, Tại bất chấp cả chiến tranh, cả nhiều người muốn cưới mình, cả đám cưới vắng rể về làm vợ Thành, chăm sóc bố mẹ Thành, lo liệu cho các em Thành. Nghĩ, lại thấy thương Tại quá. Lẽ ra phải điều trị xong, Thành mới được về thăm nhà nhưng khi nghe Thành trình bày, Viện trưởng đồng ý cho Thành đi tranh thủ một tuần, rồi xuống viện điều trị tiếp. Xuống xe ở thị trấn Thác Bà, Thành cuốc bộ một mạch về Vũ Linh. Đến nhà, hồi hộp bước lên cầu thang, ngó vào thấy Tại đang hí húi nấu cơm, Thành hắng giọng. Tại ngẩng mặt lên sững sờ nhìn Thành, không cất nổi lời. Thành chủ động đến bên vợ hỏi:

- Bố mẹ đâu …em?

Tại run run:

- Dạ…

Vừa lúc, bố mẹ Thành từ ngoài sàn phơi thóc bước vào. Thấy mặt Thành bịt băng kín, mẹ Thành bật khóc. Thành vội nói:

- Dạ, vết thương sắp lành mẹ ạ. Con về nhà ít ngày lại xuống điều trị tiếp.

Mẹ Thành liền chỉ vào Tại bảo:

- Vợ con đấy. Bố mẹ làm đám cưới rồi. Tại nó tốt lắm. Không có nó bố mẹ không còn đến ngày hôm nay đâu.

Thành cúi đầu bảo:

- Dạ! Em Khai viết thư báo cho con biết rồi. Con cảm ơn bố mẹ, anh cảm ơn Tại nhiều.  

Mẹ Thành dắt Thành tới bên Tại, cầm tay Tại đặt vào tay Thành bảo: Dẫn chồng vào buồng cất ba lô đi con. Khổ, cưới gần năm trời hôm nay mới được gặp chồng.

Điều trị xong Thành về Đoàn an dưỡng 222- Vĩnh Yên, năm 1971, được ra quân với xếp loại thương binh 4/4. Về địa phương Thành vừa chăm lo phát triển kinh tế gia đình vừa tích cực tham gia các hoạt động tại thôn, xã, luôn giữ vững phẩm chất bộ đội Cụ Hồ, chiến sĩ Yên Ninh, thương binh tàn nhưng không phế.

Sau 1975, thêm một sự bất ngờ hi hữu nữa đến với Thành. Cán bộ xã đến cho Thành xem danh sách các liệt sĩ quê Yên Bái, phần mộ trong nghĩa trang Long An của Ban Chính sách Tỉnh đội Long An gửi Ban Chính sách Tỉnh đội Yên Bái, trong đó ghi rõ: “Liệt sĩ Hoàng Kim Thành. Nguyên quán: Vũ Linh, Yên Bình, Yên Bái. Chức vụ: A trưởng. Đơn vị: D308. Hy sinh: 8/1969”. Thành không hiểu tại sao lại có sự nhầm lẫn này. Có thể một trong hai đồng đội hy sinh hôm đó đã bị nhầm tên với Thành. Chiến tranh mà, không điều gì không thể xảy ra. Sau khi nhận được báo cáo của Ban chính sách Tỉnh đội Yên Bái về sự nhầm lẫn, Ban Chính sách Tỉnh đội Long An đã tìm được tên liệt sĩ bị nhầm với Thành.

Người lính Yên Ninh Hoàng Kim Thành, có hai sự cố hi hữu, đám cưới vắng rể và phần mộ trong Nghĩa trang Liệt sĩ Long An, giờ đã có 4 con trai, 6 con gái, 9 cháu nội, 15 cháu ngoại. Các con đều chăm chỉ làm ăn, xây dựng tổ ấm gia đình hạnh phúc. Các cháu đều chăm ngoan học tập.  

Hôm tôi và Thượng tá Phạm Tiến, nguyên là Trung đội trưởng của Thành, lên Vũ Linh thăm anh, Thành cho gọi tất cả các con cháu đến làm một bữa cơm  thịnh soạn. Lúc vào bữa Thành bảo với các con: “Hôm nay, bố làm bữa cơm này vừa để tiếp thủ trưởng cũ và bạn Cựu chiến binh, vừa để nói với các con, các cháu, ngày ấy, nếu mẹ, bà các con, không chấp nhận đám cưới vắng rể thì không có các con, các cháu hôm nay. Nên các con, cháu phải có hiếu với mẹ, với bà. Bố cũng thắp nén hương mời người đồng đội đã bao nhiêu năm bị nhầm tên với bố”. Thượng tá Tiến nâng chén rượu lên bảo: “Vì nghe tin Hoàng Kim Thành đã hy sinh, sau mới biết là nhầm lẫn nên hôm nay tôi mới lên Vũ Linh thăm Thành được. Tôi đề nghị cả nhà, coi bữa tiệc hôm nay là đám cưới kim cương của vợ, chồng Hoàng Kim Thành- Hưu Thị Tại, có đầy đủ vợ chồng, chứ không phải vắng rể. Tôi xin nhận làm chủ hôn. Mời cả nhà cùng nâng chén, chúc hạnh phúc đôi “tân hôn” đã ngoại 70 nhưng ánh mắt vẫn lấp lánh như ánh kim cương.”. Thượng tá Tiến vừa dứt lời, đám con cháu cùng vỗ tay, chạm chén, hô vang “Chúc mừng hạnh phúc”. Tôi uống cạn chén rượu đầy, hòa vào niềm vui của gia đình người lính Yên Ninh sau chiến tranh.

                                                               

                                                                         N.H.L

 

 


 

Văn nghệ Yên Bái số mới

Đất và người Yên Bái qua ảnh

Thư viện video

Các cuộc thi Văn học nghệ thuật

Lượt truy cập

Visitor Counter