• Loading...
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Yên Bái tập trung đẩy mạnh đưa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII vào cuộc sống
 
Phác thảo chân dung vị tướng
Ngày xuất bản: 24/12/2024 2:32:13 SA

                         HÀ LÂM KỲ

 

Ra đi từ mái tranh nghèo

Đã mấy lần tôi mở giấy viết về ông, nhưng cứ cầm bút lên thì cảm giác muốn đặt xuống. Chỉ bởi lẽ, ngày chiến trường Tây Nguyên, ông tham gia hàng chục lần trinh sát sâu vào đồn địch. Và hầu như “trận đánh” nào cũng ghi được điểm cao. Giờ, chính ông lại không muốn nhắc đến. Ông bảo, đồng đội hy sinh mới là lớn, mình chỉ góp chút sức lực, đất nước hòa bình nhiều năm rồi, nói lại, người ngoài sẽ bảo, để đánh bóng tên tuổi. Nhưng với tôi, một tác giả, không ghi được những dòng về ông- Thiếu tướng Vũ Lục Quốc, thì cảm thấy thiếu trách nhiệm với thế hệ cầm súng, với cả lớp người sau.

Tướng Quốc, quê ở một xóm nghèo huyện Tiên Lữ, Hưng Yên. Năm 1965, thân phụ Vũ Mạnh Quýnh, một cán bộ Ngân hàng Nhà nước được điều lên miền núi công tác lâu dài, xây dựng ngành ngân hàng Yên Bái. Cậu bé Quốc đang học lớp 5 trường làng, theo cha đến xã Minh Bảo, tá túc căn nhà tre lá; cũng là lúc giặc Mỹ bắt đầu mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc bằng máy bay. Thị xã Yên Bái lọt vào mục tiêu trọng điểm. Ngày ngày, hàng tốp F105, F4H, F111, trút bom xuống khu ga tàu hỏa, xuống sân bay Nam Cường, rồi nhà máy thủy điện Thác Bà. Vào Đội thiếu niên chống Mỹ, rồi Đội thanh niên “Ba sẵn sàng” của thôn, xã, Vũ Lục Quốc cùng bạn trang lứa háo hức chờ đợi một ngày được theo chân các anh chị lớn tuổi đi bộ đội hoặc đi thanh niên xung phong. Tháng 8 năm 1973, Vũ Lục Quốc cùng Nguyễn Văn Kỳ và các tân binh huyện Trấn Yên và các huyện thị tỉnh Yên Bái lên đường nhập ngũ, dời vùng quê miền núi, về huấn luyện tại Sư đoàn 304B Phú Bình, Thái Nguyên. Thời gian huấn luyện ngắn hạn kết thúc huấn luyện chiến sĩ mới, Vũ Lục Quốc được giao làm Tiểu đội phó, thành cán bộ “khung” để rồi, ông cùng Nguyễn Văn Kỳ vào chiến trường. Tại Cánh Bắc Tây Nguyên, Vũ Lục Quốc được biên chế vào Đại đội trinh sát trực thuộc Trung đoàn 66 nổi tiếng của Sư đoàn 10 anh hùng.

 

Lính chiến

Trận đầu (tháng 7 năm 1974), để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ta, Trung đoàn ra lệnh cho trinh sát tổ chức lực lượng phục kích diệt cơ giới địch. Toán trinh sát do Chính trị viên phó Triệu Minh Phương (sau là Đại tá, Tiến sĩ, Chủ nhiệm Khoa Quân báo trinh sát Học viện Quốc phòng) chỉ huy bí mật luồn sâu vào hậu cứ địch. Chọn trận địa phục kích. Trận đánh diễn ra bất ngờ, nhanh gọn Vũ Lục Quốc dùng B40 bắn cháy 01 xe GMC chở quân, cùng đồng đội diệt gọn 12 tên địch trên xe, cả toán trinh sát của ta bí mật rút về căn cứ an toàn. Bị đánh bất ngờ giữa “sào huyệt” hành quân, quân ngụy bắt đầu hoang mang dẫn đến co cụm. Có lần tổ (toán) trinh sát của Quốc bị địch phát hiện, chúng không phán đoán được lực lượng của ta nên phải huy động thêm quân bao vây cả một buổi chiều. Tổ trinh sát vẫn “ém” mình an toàn. Lần khác Chính trị viên phó Triệu Minh Phương lại chỉ huy toán trinh sát gồm 6 người dùng mìn Clâymo phục kích bộ binh địch hành quân diệt là làm bị thương 32 tên. Trận này Phan Xuân Kỷ bị thương, nhưng cả toán vẫn nhanh chóng bí mật rút về căn cứ an toàn mặc cho pháo cối của địch truy kích vào nơi địch nghi ngờ ta rút quân.

Nhưng với tướng Quốc, ấn tượng sâu sắc nhất là những lần trinh sát đánh quận lỵ Đức Lập. Cuối năm 1974, toán trinh sát của Vũ Lục Quốc được giao nhiệm vụ đặc biệt là vượt mọi đề kháng, luồn sâu tận cùng vào Sở chỉ huy của căn cứ Đức Lập- một trọng điểm điều hành lớn của quân ngụy Sài Gòn ở Tây Nam Buôn Mê Thuật. Chỉ thị của Bộ Tư lệnh là phải nhổ gọn cứ điểm mà Bộ Tư lệnh Quân đoàn II Việt Nam Cộng Hòa đóng ở Pleiku vẫn tự hào gọi đó là “Cánh cửa thép”. Với tầm quan trọng, san phẳng đầu mối chỉ huy Đức Lập, mở đường cho chiến dịch tiến công diện rộng, tướng Vũ Lăng- Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (Bí danh là B3 Tây Nguyên) cùng chỉ huy Sư đoàn 10 đích thân đi thị sát trước khi ông ra lệnh nổ súng, lực lượng trinh sát Trung đoàn 66 cùng các lực lượng quân báo trinh sát các cấp đã chuẩn bị và bảo đảm an toàn cho Tư lệnh Vũ Lăng và chỉ huy các cấp vào quan sát mục tiêu trước khi hạ quyết tâm tiến công Đức Lập. Phần lo phải an toàn tuyệt đối cho Tư lệnh và Chỉ huy Sư đoàn, phần khác ghi dấu mục tiêu phải cực kỳ chính xác và chắc chắn, anh em trong toán dồn hết tâm lực cho một nhiệm vụ đặc biệt, nhiệm vụ không được phép sơ suất và sai phạm. Những giờ phút căng thẳng tột độ qua nhanh. Kết quả trinh sát được phê duyệt, giúp cho Trung đoàn 66 và các đơn vị hợp thành trong trận tiến công cứ điểm Đức Lập của Sư đoàn 23 quân đội Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn chờ giờ “G” của tướng Vũ Lăng. Và, 05h55 phút ngày 9 tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 10, Sư đoàn 316 và các lực lượng Binh chủng khác, cùng với bộ đội địa phương, đồng loạt nổ súng. 9 giờ sáng hôm đó, Trung đoàn 66 đã chiếm giữ Sở chỉ huy hành quân Đức Lập. Toàn bộ Buôn Mê Thuật bị chia cắt và cô lập, mở đường cho các mũi tiến công của Chiến dịch Tây Nguyên (mật danh là Chiến dịch 275) đánh thẳng vào thủ phủ Đắc Lắc- thị xã Buôn Mê Thuật.

Trước tình thế Buôn Mê Thuật bị thất thủ, quân đổ bộ tái chiếm cũng bị đánh bại. Lữ đoàn dù tinh nhuệ số 3 của Việt Nam Cộng hòa được gấp gáp tung lên đèo Phượng Hoàng nhằm chặn đứng đường tiến xuống ven biển Duyên hải miền Trung của Quân giải phóng Tây Nguyên. Các toán trinh sát của Sư đoàn 10 được rải dọc tuyến đường để bám sát tình hình. M’.Dắck, địa danh Quân lỵ trên đèo Phượng Hoàng, là một điểm chốt chặn kiên cố của Lữ dù 3. Toán của Vũ Lục Quốc và toán của Nguyễn Văn Kỳ cùng nhiều trinh sát bạn nhận nhiệm vụ này.

Trinh sát đèo Phượng Hoàng thật khó khăn. Địch chốt dọc tuyến, “Cài răng lược” vào buôn làng dân cư dân tộc thiểu số. Xác định được mục tiêu chính để giải quyết nhanh và ít thương vong là yêu cầu cao nhất. Tổ trinh sát của Quốc, của Kỳ đều được giao trọng điểm M’.Dắck nơi Tiểu đoàn tinh nhuệ của Lữ dù 3 chốt giữ. Suốt đêm bí mật áp sát, ghi dấu địa hình lợi thế nhất, trở về báo cáo để chỉ huy xây dựng phương án hợp đồng các lực lượng bộ binh, Binh chủng và bộ đội địa phương trong tình thế rất khẩn trương. Lữ dù 3 ngụy cảm tử, quyết liệt. Những tài liệu trinh sát thu được đã giúp chỉ huy Sư đoàn 10 quyết đoán chọn thời cơ điểm huyệt. Sau gần 48 giờ giằng co, chiều ngày 1 tháng 4 năm 1975, quân ta đánh thông các chốt chặn đèo Phượng Hoàng. Sư đoàn 10, Binh đoàn Tây Nguyên vượt mọi chướng ngại vật, theo quốc lộ rầm rập tràn xuống Nha Trang. Gần đến thành phố biển, mũi tiến quân của các đơn vị chủ lực phía Bắc cũng sắp tiếp cận. Sư đoàn 10 của Binh đoàn Tây Nguyên được lệnh chuyển hướng. Toán trinh sát của Vũ Lục Quốc lại được giao nhiệm vụ trinh sát tuyến đường cũ từ Cam Ranh đi chân đèo Đa Nhim. Tổ bắt liên lạc với Huyện uỷ Bắc Ái (Bình Thuận) huy động tổng lực nhân dân cùng công binh mở thông tuyến đường này để Sư đoàn Bộ binh 10 kịp thời đổi hướng tấn công. Mặc cho không quân địch đánh phá ngăn chặn ác liệt. Sư đoàn 10 hành quân ngày đêm về tập kết tại Dầu Tiếng- Tây Ninh. Ngày 26/4/1975, Sư đoàn 10 nhận nhiệm vụ tiến công Sài Gòn theo hướng Tây Bắc đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ thông tin Mỹ nguỵ. Nhận mệnh lệnh hành quân cơ giới tiến về điểm tập kết Củ Chi. Cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 10, phút chốc trào dâng niềm tin trước mệnh lệnh lịch sử: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa! Táo bạo, táo bạo hơn nữa…”

Bên tiền sảnh căn hộ nhỏ gọn được Hội Cựu chiến binh gắn biển vinh danh “Nhà sạch, vườn đẹp”, nâng ấm trà sản phẩm “Ô cốp”, rót nhẹ vào ly sành trên tay khách “văn”, tướng Vũ Lục Quốc bất ngờ cắt ngang câu chuyện mà tôi đang chăm chú ghi chép.

- Chiến tranh qua gần nửa thế kỷ rồi. Bây giờ ngồi đây, tháng ba, nhâm nhi chén trà nóng, nhớ thương đồng đội Tây Nguyên vô cùng. Đồng đội hy sinh, đồng đội thương tật, bệnh tật. Rồi tuổi tác, rồi gia cảnh éo le… mới thấy mình hạnh phúc hơn anh em rất nhiều.

Tôi hiểu cảm xúc của vị tướng sau mỗi lát chuyện ông kể. Nhưng không muốn ngắt quãng mạch ký ức, nên cố gắn sự kiện với nhân vật của mình.

- Thời điểm đó…!- Đặt nhẹ ly trà xuống bàn, tôi nói tiếp.- Ở thời điểm đó, đơn vị tôi (Phòng Quân y, Cục Hậu cần, Mặt trận Tây Nguyên), được giao tiếp quản khu Bộ Tư lệnh Quân đoàn II ngụy tại Pleiku nên không có cơ hội đi chiến dịch Hồ Chí Minh. Nhưng biết rất rõ Sư đoàn 10 của ta cùng lúc tham gia giải quyết gọn hai trên năm (2/5) mục tiêu trọng điểm để hợp quân làm chủ hoàn toàn thành phố Sài Gòn.

Tướng Quốc không trầm ngâm mà hào hứng hẳn lên:

- Đúng rồi! Phải có độ tin cậy như thế nào, Sư 10 ta mới có được vinh dự ấy chứ?- Tôi nhìn vị tướng chiến trận, khẽ gật đầu!- Theo đường 13, Sư đoàn 10 rầm rập tiến về Sài Gòn, được phép vượt qua Sư đoàn 320 đang tiến công căn cứ Đồng Dù và sự kháng cự của các lực lượng địch trên đường hành quân tiến vào mục tiêu đã được giao. Toán trinh sát Trung đoàn 66 gồm Vũ Lục Quốc, Nguyễn Văn Kỳ, Phan Xuân Kỷ và Hoàng Quốc Toàn được chiến sĩ biệt động Sài Gòn dẫn đường. Có nhiệm vụ đi trước, nắm chắc tình hình địch sẵn sàng dẫn đội hình của Trung đoàn 66 tiến công sân bay Tân Sơn Nhất chiếm đài chỉ huy sân bay cùng Trung đoàn 24, Sư đoàn 10. Trung đoàn 24 và 66 đã hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm và giữ nguyên vẹn mục tiêu sân bay trước sự kháng cự của địch. Đúng thời điểm này, Trung đoàn 28 bộ binh với sự dẫn đầu của xe tăng và pháo binh, lại có các chiến sĩ biệt động, đặc công, cùng nhân dân nội thành hỗ trợ, nhanh chóng đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy. Các mũi khác của Sư đoàn 10 cũng đã làm chủ những mục tiêu được giao trước khi toàn bộ nội các của Tổng thống Dương Văn Minh bị bắt giữ và tuyên bố đầu hàng. Chỉ trong thời gian ngắn bộ phận tiếp quản sân bay có mặt nhận sự chuyển giao của Trung đoàn 66. Chỉ huy lực lượng không quân cảm ơn Trung đoàn 66 và tổ trinh sát Trung đoàn, đã giữ an toàn đài chỉ huy phi trường, giúp cho không quân ta tiếp quản quản lý, sử dụng sân bay Tân Sơn Nhất ngay sau ngày giải phóng.

Ngồi trước vị tướng từng là lính trinh sát bộ binh và là Phó Tham mưu trưởng Quân khu II sau này. Tôi nhắc đến chuyện... buồn, bởi những sơ suất của quân ta trong khoảnh khắc chiến tranh.

Nơi chiến trường, câu chuyện ký ức đã đi vào trang sách, tôi cảm giác nặng trĩu. Tướng Quốc lặng lẽ. Giây lát ông mới nói: Chiến tranh, trong bối cảnh ấy, tổn thất là không tránh khỏi. Tôi khẽ gật đầu.

Vĩ Thanh:

Đi tiếp đường binh nghiệp

Sau lễ Mừng chiến thắng ngày 15/5/1975. Trung đoàn 66 do Trung tá Anh hùng LLVT Nguyễn Đình Kiệp làm Trung đoàn trưởng, được lệnh trở lại Gia Nghĩa - Nhân Cơ, làm nhiệm vụ truy quét Phun rô (tàn quân ngụy người Thượng ở Tây Nguyên) và chống quân Khơme đỏ xâm lấn. Ổn định tình hình, Vũ Lục Quốc cùng các bạn hữu Nguyễn Văn Kỳ, Đặng Văn Luyến được cử đi học trường Sỹ quan lục quân 1. Từ đây, binh nghiệp của ông ngoặt sang một hướng khác trở thành Sĩ quan chỉ huy Binh chủng hợp thành. 12 năm làm cán bộ khung huấn luyện với cương vị là Tiểu đoàn trưởng của Trường sĩ quan lục quân, quân hàm Thiếu tá, ông được điều về Quân khu II, Năm 1994, về làm Trưởng Ban chỉ huy Quân sự huyện Trấn  Yên (Yên Bái). Rồi Phó Tham mưu trưởng Sư đoàn 316. Chỉ huy phó Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Vĩnh Phúc, Đoàn trưởng Đoàn KT-QP 379. Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lai Châu. Năm 2009 làm Phó tham mưu trưởng Bộ tham mưu quân khu II. Ông nghỉ hưu với quân hàm Thiếu tướng. Đảng, nhà nước, quân đội, trao tặng ông nhiều Huân, Huy chương và các phần thưởng cao quý khác.

Bạn hữu chiến binh

Hiếm có một đại đội nơi chiến trường nào lại có ba vị tướng cùng trưởng thành từ chiến sĩ như Đại đội 20 trinh sát, trực thuộc Trung đoàn 66 Sư đoàn 10: Tướng Vũ Lục Quốc, tướng Nguyễn Văn Kỳ, tướng Đặng Văn Luyến (Phó Tư lệnh Tham mưu Trưởng Quân khu 2).

Tôi đến thăm thiếu tướng Nguyễn Văn Kỳ tại nhà riêng (phường Yên Ninh, thành phố Yên Bái). Đường vào nhà riêng vị tướng quanh quanh sườn đồi, có lẽ khó nhất trong các đường vào nhà… Tướng. Ông bảo, đất hương hỏa các cụ, có thế nào, ở như vậy. Đồng đội nằm lại chiến trường, mình được về là hạnh phúc lắm rồi. Cô con gái đưa ra hai ly cà phê mời bác và bố. Cà phê Buôn Mê, sở thích của tôi. Câu chuyện thời Tây Nguyên của ông cứ cuốn hút cả hai. Bất chợt tôi hỏi kỷ niệm của ông về tướng Vũ Lục Quốc. Thiếu tướng Nguyễn Văn Kỳ ngẩng nhẹ làm ánh lên đôi mắt tự tin. Hơn 43 năm song hành cùng nhau, ra đi cùng một ngày và trở về cùng một ngày, có nhiều kỷ niệm sâu sắc lắm, nhất là trong chiến đấu sống chết có nhau kể làm sao hết được. Nhưng mà thôi, nên nhắc chuyện đời thường.

Không để hụt hẫng, tôi tò mò lần theo ký ức vị tướng.

Vũ Lục Quốc học trên một lớp nhưng cùng ngày giờ nhập ngũ. Cái chữ “Cùng” theo sát hai ông đến kỳ lạ, tự nhiên và ngẫu nhiên. Từ giây phút xốn xang đầu tiên, bước lên nhận bộ quân trang Binh nhì, cho đến ngày cả hai cùng rời cương vị chỉ huy: Phó Tham mưu trưởng Quân khu II với quân hàm Thiếu tướng. Chặng đường hơn 43 năm binh nghiệp, hai ông luôn là hình và bóng như có sự sắp đặt khó có thể cắt nghĩa.

Ví như lần trinh sát đèo Phượng Hoàng (tháng 3/1975), tổ trinh sát của Nguyễn Văn Kỳ đang đi ngược dòng suối đã áp sát ven bờ, con suối nhỏ trong khi đó tổ của Vũ Lục Quốc cũng đang men xuôi đoạn suối. Đêm, ánh trăng làm sóng nước lóng lánh. Linh tính, Nguyễn Văn Kỳ nhắc mọi người tăng cường quan sát: Cứ theo dõi đối tượng đã! Dưới bờ nước phía bên kia, Vũ Lục Quốc chững lại nói với người sau: Hình như quân... ta! Câu nói lọt giữa đêm tĩnh mịch. Trong tư thế sẵn sàng nổ súng, Nguyễn Văn Kỳ hỏi to: Có phải Quốc đấy không? Trả lời: Đúng  rồi Kỳ ơi! Hai tổ trinh sát, 2 đồng đội cùng quê “bắt” được nhau. Rồi nhanh chóng mỗi người mỗi hướng đi thực hiện nhiệm vụ.  

Ví như lần trên đường tấn công địch ở quận lỵ Khánh Dương, Vũ Lục Quốc ngồi trên xe tăng cùng Trung đoàn trưởng Nguyễn Đình Kiệp, Tổ trinh sát của Nguyễn Văn Kỳ tiếp cận trước. Đến một khúc cua, xe rẽ ngang. Trước mặt, bắt gặp một mô đất cao, chiếc tăng chồm qua. Bị chấn động mạnh quả đạn trong nòng pháo bất ngờ phát nổ. Bọn địch đang cụm phía trước chạy toán loạn vào rừng cây. Trung đoàn trưởng Kiệp nổi nóng văng tục: Nhanh lên, chạy hết mẹ bọn địch của tao mất rồi. Lính ta trên tăng nhảy xuống chỉ bắt được mấy tù binh. Trở về cứ tập kết, Quốc và Kỳ đồng đội cùng kể lại chuyện vui này.

Mấy năm chiến trường, vào trận liên miên, lớp lính trinh sát mặt đất "khua đường đá mìn", dễ va chạm với Biệt kích- thám báo của địch, thường xuyên gặp bom, mìn cạm bẫy địch cài, có lúc cái chết chỉ trong giang tấc, vậy mà cả Nguyễn Văn Kỳ và Vũ Lục Quốc không có thẻ… thương binh, vì chỉ bị sát thương phần mềm. Ấy là chưa nói đến chuyện Vũ Lục Quốc cứu Nguyễn Văn Kỳ trong trận sốt rét ác tính Tết năm 1973- 1974, chuyện cõng bạn rời khỏi địa điểm trinh sát khi Nguyễn Văn Kỳ giẫm trúng bàn chông mà bọn địch cài sẵn. Và ví như ngày về, Nguyễn Văn Kỳ lấy vợ (chị Dung), ông cụ thân sinh Vũ Lục Quốc, là người đi hỏi. Đến hôm Vũ Lục Quốc chạm ngõ nhà gái, ông cụ thân sinh Nguyễn Văn Kỳ dẫn đầu đoàn nhà trai đến đặt lễ xin cưới. 

Kỹ năng chiến trận, sự may mắn, hay số phận cuộc đời đã dành cho các ông? Không rõ. Nhưng đó lại là… có thật.

Sau hơn 10 năm học tập công tác tại Trường Sĩ quan lục quân I, hai ông đều được chuyển vùng về Quân khu II, sau thời gian trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau cả hai ông đều được Bộ Tư lệnh Quân khu II giao trọng trách: Nguyễn Văn Kỳ trở thành Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Yên Bái. Vũ Lục Quốc trở thành Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lai Châu. Những năm tháng giữ trọng trách Thường vụ Tỉnh uỷ, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Lai Châu, là tỉnh mới được chia tách từ tỉnh Lai Châu cũ. Rất nhiều khó khăn xong ông đã tham mưu cho Tỉnh uỷ và Chỉ huy lực lượng vũ trang tỉnh xây dựng nền Quốc phòng toàn dân. Thế trận chiến tranh nhân dân và khu vực phòng thủ tỉnh ngày càng vững chắc. Năm 2007, lần đầu tiên diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh đạt kết quả đơn vị xuất sắc của Quân khu II góp phần quan trọng xây dựng tỉnh Lai Châu ổn định chính trị, chính quyền an ninh biên giới được giữ vững, kinh tế xã hội phát triển, đời sống nhân dân các dân tộc ngày được nâng cao. Và rồi cả hai ông được điều lên Quân khu với cùng cương vị và hàm cấp: Thiếu tướng, Phó tham mưu trưởng Quân khu II. Tình bạn song hành trong ngành nghề đã là hiếm, song hành trong trận mạc và đời binh nghiệp một cách trọn vẹn và cốt cách như tướng Nguyễn Văn Kỳ, tướng Vũ Lục Quốc, rất đáng để thế hệ sau suy ngẫm.

Hậu chiến đời lính

Cũng như các đồng ngũ thân hữu: Đặng Văn Luyến, Nguyễn Văn Kỳ bước qua tuổi thất thập, tướng Vũ Lục Quốc an vị với đời thường. Ông tham gia nhiều “hội lính”, cũng nhiều lần cùng tướng Kỳ, tướng Luyến, và đồng đội trở lại chiến trường xưa tri ân các liệt sĩ và tư vấn tìm mộ đồng đội. Ngoài công việc xã hội tại địa phương, ông rất chú trọng chăm sóc gia đình. Vợ ông bà Phạm Thị Mai, là một nhà giáo hết lòng vì sự nghiệp giáo dục. Con trai lớn ông nay là Chính uỷ Trung đoàn. Cuộc đời chinh chiến lặng lẽ và cuộc sống gắn kết bình dị đầy chất lính bộ đội Cụ Hồ, ông coi đây là tài sản vô giá để lại cho con cháu, cho gia tộc. Có lẽ, đấy cũng là đoạn kết có hậu ở vị Cựu chiến binh- Thiếu tướng Vũ Lục Quốc.

H.L.K

Văn nghệ Yên Bái số mới

Đất và người Yên Bái qua ảnh

Thư viện video

Các cuộc thi Văn học nghệ thuật

Lượt truy cập

Visitor Counter