Cảm nhận về sáng tác của nhà văn Hoàng Thế Sinh

HÀ BÍCH NGỌC

(Trường PTDTNT THPT Miền Tây tỉnh Yên Bái)

 

 

Hoàng Thế Sinh là một cái tên quen thuộc trong làng văn xuôi Yên Bái. Từ ngày đầu xuất hiện, cây bút Hoàng Thế Sinh đã vùng vẫy giữa một khoảng trời cao rộng và thoáng đãng, không chịu gò bó trong một thể loại, một mảng đề tài nào nhất định. Gắn bó với văn chương từ khi còn rất trẻ, đến nay ông đã có gần 40 năm chuyên cần sáng tạo và đạt được nhiều thành tựu đáng kể.

Từ một người lính- một thầy giáo dạy văn- một thạc sĩ văn học rồi chuyển sang làm nghề báo, Hoàng Thế Sinh đã sớm có suy nghĩ sâu sắc về nghề văn: “Tôi cảm nhận viết văn đó là một nghề “Giời đầy” một nghề lao động sáng tạo khắc nghiệt và thật hạnh phúc. Tác phẩm phải gắn với thân phận con người, gắn với vận mệnh đất nước, nếu không chẳng có nghĩa gì cả”. Chính điều này đã chi phối tất cả những sáng tác của ông thành phong cách riêng và mang đậm dấu ấn Hoàng Thế Sinh.

Hoàng Thế Sinh đã từng trải qua thời bao cấp, cái thời đầy khó khăn khổ cực. Càng trong khổ cực, thiếu thốn, con người càng được tôi luyện về nhân cách và bản lĩnh. Phẩm chất đầu tiên là họ bất bình trước những thói hư tật xấu của xã hội, cao hơn nữa là họ sẵn sàng đấu tranh để bài trừ chúng cho dù có thất bại. Lên tiếng chống cái hư, tật xấu cái ác độc của đời sống thế sự là cảm hứng lớn của văn học Việt Nam nói chung, trong đó có Hoàng Thế Sinh. Điều đó thể hiện trong phần lớn tiểu thuyết của ông như: Bụi hồ, Rừng thiêng, Thuốc phiện và lửa; và các truyện ngắn như: Người nông dân nhỏ bé, Đảo chanh đào, Chim gâu đôi

 Trong tác phẩm của ông, những nhân vật tử tế thường hay bị vùi dập, oan khuất, hay phải chịu thiệt thòi, còn những kẻ không ra gì thì đắc thắng, trâng tráo, mặc sức tác oai tác quái. Cái nhìn của nhà văn rất sòng phẳng. Có thể những người tử tế chưa chắc đã được cuộc đời đền bù, song dứt khoát những kẻ khốn nạn thể nào cũng bị quả báo. Có lẽ dưới ngòi bút của ông những người có dũng khí luôn được đề cao, tôn vinh nên nhân vật của ông được xây dựng và ứng xử theo tinh thần triết lý dân gian “ác giả, ác báo”. Trong bài “Ở xứ mưa có Hoàng Thế Sinh”, Văn Giá đã viết: “Tôi vẫn cứ nghĩ, tất cả các tác phẩm mà Hoàng Thế Sinh viết ra, cả trong văn xuôi lẫn thơ, cả trong truyện ngắn lẫn tiểu thuyết, cả ký và truyện cười... đều hiện lên một cái nhìn nhất quán về cuộc đời: sự phân minh của đạo lý và công lý trong tư thế làm người. Chính vì thế mà thế giới nhân vật của anh bao giờ cũng được nhìn nhận và mô tả theo cái nhìn phân tuyến: một bên là những người tử tế, còn bên kia là những kẻ đểu cáng bất lương”. Đó là những kẻ bất tài, thiếu nhân cách nhưng biết lợi dụng, luồn lách, nịnh bợ lại có “ô dù” to để dựa dẫm nên đã nhanh chóng thăng tiến. Nhân vật Tam trong Xứ mưa điển hình cho loại người cơ hội này. Được thăng lên chức phó hiệu trưởng vì “hắn có người nhà làm cán bộ có vai vế ở sở Giáo dục, ở tổ chức chính quyền tỉnh và hắn cũng lắm mánh lới”, từ đó hắn trở nên mưu mô, nham hiểm, nịnh trên nạt dưới, gây nên biết bao đau khổ cho người khác... Hay một số cán bộ là những kẻ quan liêu, xa dân, chỉ đứng từ xa để chỉ đạo, ngoài mặt ra vẻ lo cho cuộc sống của nhân dân nhưng thực chất bên trong là lợi dụng để hút máu của dân (Luật rừng, Chuyện quanh núi chúa).

Cái nhìn về đời sống của Hoàng Thế Sinh bao giờ cũng dứt khoát, phân tuyến rạch ròi theo tinh thần “ác giả, ác báo”. Đúng như tên một truyện ngắn của anh: Luật của rừng, trong đó có nhân vật thằng Lường lợn lòi sống độc ác, táng tận lương tâm, phá rừng, đánh người quản rừng cuối cùng bị gấu rừng vả vào mặt suýt chết. Nhân vật thằng Liêng trong Rừng thiêng cũng thế, cả đời chuyên làm những điều độc ác, cuối cùng bị lũ cuốn suýt toi mạng... Nhân vật Hoàng trong Bụi hồ vốn là anh bộ đội đặc công, vì có nhân cách và lòng tự trọng mà đã truy lùng Si Ngoác - kẻ đã giết chết vợ anh, khởi đầu cho tấn bi kịch cuộc đời. Anh bị kết án với tội danh bức tử người khác, phải chịu bảy năm tù giam. Sắp đến ngày được tự do, anh đã đánh tên quản ngục vì bị hắn xúc phạm gọi anh là đồ “súc vật”. Sau đó trốn tù không ra đầu thú, anh lang lang sống chui lủi phiêu bạt khắp nơi. Bị dồn vào chân tường, anh ra nhập vào thế giới Bụi hồ, sống ngoài vòng pháp luật.

Trong sáng tác của Hoàng Thế Sinh, ngoài những vấn đề mang tính chất xã hội, tác phẩm của ông còn đi vào khía cạnh đời tư của con người, đề cao con người, đề cao ý thức cá nhân, quan tâm đến số phận cá nhân với quyền làm người, quyền được tự do, hạnh phúc. Điều đó thể hiện ý nghĩa nhân văn trong sáng tác của ông. Nhà văn để cho nhân vật của mình tự đi tìm hạnh phúc bằng những hành động mạnh mẽ, quyết liệt, dù vấp phải khó khăn nhưng họ vẫn kiên trì vượt lên. Như Noọng Sim trong Rừng thiêng là con gái của thầy lang chữa bệnh giỏi và có uy tín đối với dân bản. Sim thích Đam nhưng từ ngày Đam đi bộ đội, ở nhà Liêng cũng rất thích Sim và muốn lấy Sim làm vợ. Bỏ mặc nỗi sợ từ những lời đồn đại rằng Đam là con của khỉ vàng núi Đán Khao, vượt qua những lời dọa dẫm, những trò ma mãnh, những mưu mô, quỷ kế của Liêng, cuối cùng Sim được hạnh phúc bên Đam.

Bên cạnh việc đề cao sự thức tỉnh ý thức cá nhân, sáng tác của Hoàng Thế Sinh còn thắp lên ngọn lửa sống mãnh liệt của những số phận cá nhân nhỏ bé bị chà đạp. Họ khao khát tìm lại quyền làm người, quyền tự do và hạnh phúc. Trong Bụi hồ, Hoàng là một người liều lĩnh nhưng ham sống, ham yêu. Hoàng và Vân là hai con người có số phận bất hạnh, một người phải sống chốn chui chốn lủi, một người thì cô đơn yếu thế bị đẩy ra đảo hoang. Hai người gặp nhau, họ chia sẻ và cam thông với nhau bằng tình yêu, tình người. Dù gặp bao trắc trở nhưng Hoàng vẫn khẳng định chắc chắn rằng: “Nhưng ngày mai, bên cạnh tình yêu anh còn có danh dự của một người đàn ông. Có thể chúng ta phải chịu nhiều đau đớn, tủi nhục nữa nhưng chúng ta sẽ thức tỉnh được một điều gì đấy về lương tâm, giá trị con người. Còn trên đời này, anh không cho phép bất cứ ai sỉ nhục chúng ta”.

Hoàng Thế Sinh là người miền xuôi, nhưng ông đã sống và gắn bó với mảnh đất vùng cao Yên Bái gần trọn cuộc đời. Bởi vậy, thế giới thiên nhiên của núi rừng bí ẩn, hoang dã với vẻ đẹp lãng mạn luôn là một đề tài khơi gợi cảm hứng sáng tác của ông. Đó là cả một thế giớ ghê rợn của ma quỷ và các loài mãnh thú, một thế giớ tối tăm mà trong đó con người thật bé nhỏ. Nơi đây đã thừng diễn ra những cuộc xung đột giữa con người với con người để tranh giành sự sống, là nơi chứa đầy hiểm họa không lường trước được... Đó còn là vẻ đẹp của đảo Mõm Sói, một trong hơn một ngàn hòn đảo nổi trên hồ Thác Bà trong Bụi hồ. Cảnh sắc thiên nhiên ở đây thật nên thơ và biến hóa vào lúc hoàng hôn “Chiều xuống, mặt hồ màu ngọc bích giống như một chiếc gương thần kỳ chợt đổi màu trong hoàng hôn phớt tím”. Còn buổi sáng mùa thu đảo được miêu tả với một vẻ đẹp huyền ảo ‘Sương mù giăng trắng, biến các hoang đảo thành như những tảng băng lớn ở vùng bắc cực, trôi dập dềnh. Mặt trời chẳng khác gì trái cam hong hanh vàng trôi giữa không gian mông lung…”.

Trong văn xuôi Hoàng Thế Sinh, thiên nhiên và con người còn có mối quan hệ hòa hợp với nhau. Con người dựa vào thiên nhiên để sinh sống, lao động, tồn tại. Thiên nhiên với con người như người bạn thân thiết, con người khao khát sống giao cảm với thiên nhiên. Đặc biệt thiên nhiên dưới ngòi bút của Hoàng Thế Sinh thường được miêu tả gắn liền với những biến cố của cuộc đời nhân vật chính. Đối với nhân vật Hoàng trong Bụi hồ, mỗi khi cảm thấy mệt mỏi, lo âu hay những lúc cần sự yên tĩnh để suy nghĩ anh lại đi lang thang dọc các dòng suối, thả hồn mình vào phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ. Hay nhân vật Sa trong Sao tổn khuổng, cô coi thiên nhiên như một người mẹ nuôi dưỡng bao thế hệ vùng cao bằng những gì ngọt lành nhất… Đôi khi con người như trải lòng với thiên nhiên như với Mỷ Châu, bến nước Pàng Chùa vừa như một người bạn tâm tình, vừa như chứng nhân chúng kiến niềm vui cũng như sự đau buồn trong cuộc đời của cô (Thuốc phiện và lửa).

Thiên nhiên đẹp là thế, đa dạng và phong phú là thế nhưng vì lợi ích cá nhân mà con người sẵn sàng tàn phá thiên nhiên, khai thác gỗ bừa bãi, săn bắn muông thú không thương tiếc đẫn đến hệ lụy. Đây cũng là niềm trăn trở trong sáng tác của Hoàng Thế Sinh. Ông miêu tả nhiều đối tượng tàn phá thiên nhiên như bọn lâm tặc, chính quyền địa phương với những quan điểm chủ trương sai trái… và rồi bị quả báo. Hệ quả là cuộc sống của người dân phải đối mặt với những cơn lũ đa dữ dội suốt cả chục ngày không ngớt trong: “Mưa càng ngày càng to, gió thổi ù ù qua các thung lũng như thổi vào hang đá, nghe rợn người… Gió và sấm tung ra mù trời, vò xé, vặn gẫy, quật đổ không biết bao nhiêu là cây rừng” (Rừng thiêng). Trong Thuốc phiện, lửa “lúc đầu dân bản tưởng mưa bão, mưa đá vội chạy tụt vào trong nhà. Mãi bình tĩnh nhìn ra, mọi người hốt hoảng vì không thấy đá mà thấy toàn chim là chim”. Chuyện kỳ lạ khủng khiếp này chưa từng thấy ở vùng núi Xu Phin, núi Lũng Cung, núi Pú Song Sung, sự việc khiến cho mọi người lo sợ và phần nào nhận ra rằng “đến lúc trời trừng phạt con người”, “trời đất đổi tính nết rồi”.

Trong sáng tác của Hoàng Thế Sinh, các nhân vật được miêu tả chi tiết, cụ thể về ngoại hình, nhất là những người phụ nữ. Mỗi nhân vật được khắc họa với một vẻ đẹp khác nhau nhưng vẫn mang đậm đặc trưng của người phụ nữ vùng cao. Thông qua miêu tả ngoại hình phần nào làm nổi bật lên tính cách và số phận của nhân vật. Mỷ Châu trong Thuốc phiện và lửa được miêu tả “Xinh đẹp như tiên nữ trong cổ tích. Mỷ Châu cao dong dỏng. Nước da nâu. Gương mặt trái xoan tươi sáng. Mũi thẳng. Môi trái đào hơi dày và ướt. Mắt đen thẳm hút hồn...”. Hay bằng sự tưởng tượng cùng với việc sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng của truyện cổ dân gian và văn học trung đại, tác giả đã phác họa chân dung nhân vật thật đẹp - một vẻ đẹp rất riêng của núi rừng Tây Bắc: “Cô bước đi uyển chuyển, mềm mại như ngọn gió thổi qua rừng cây trúc. Giọng nói của cô trong như tiếng suối mây chảy mùa thu. Người trong bản còn bảo, cô đẹp đến nỗi khi lên nương thì cây cỏ ngả xuống nâng bước chân. Cô ra vườn thì bướm bay theo từng đàn. Cô lội xuống suối thì cá bơi lượn quanh chân. Cô vào rừng thì hoa rừng nở thơm ngát và chim sơn ca thi nhau hót cho cô nghe”.

Chất trữ tình được xuất hiện từ sự hòa quyện giữa cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật, tạo nên giá trị thẩm mỹ và nhân văn trong sáng tác của Hoàng Thế Sinh. Ông đã đưa vào tác phẩm của mình những bài thơ dài. Ở tiểu thuyết Xứ mưa có rất nhiều bài thơ, đoạn thơ do chính các nhân vật tự sáng tác. Hay có những lúc Hoàng mơ màng trước cảnh vật với tâm trạng lâng lâng trong một buổi sớm mai qua những lời văn giàu chất trữ tình: “Ô kìa! Hoa ngô và hoa keo phết rịm màu vàng nâu tận chân nhà sàn. Gió vờn mây. Mây vờn núi. Sương như tuyết bay trắng mờ thung lũng. Nắng mai vàng hừng lên hòa quyện vào màn sương khiến cho không gian trở nên huyền ảo”.

Hoàng Thế Sinh là một trong những cây bút vạm vỡ của nền văn xuôi Yên Bái, mang ý thức dấn thân mạnh mẽ, thể hiện trách nhiệm cao đối với con người và đất nước. Sáng tác của ông đã đạt được nhiều giải thưởng cấp Trung ương, khu vực Đông Nam Á và địa phương. Ông thực sự là nhà văn giàu tâm huyết và tài năng trong không gian văn học Yên Bái nói riêng và nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

 

H.B.N

 

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter