Mỏ truyện của Trần Cao Đàm

Hoàng Thế Sinh

 Một hôm, tôi vào nhà anh Trần Cao Đàm, không phải để đàm đạo văn chương, mà tôi tìm anh xin thuốc chữa bệnh. Tôi bệnh "nan giải" chứ chưa phải bệnh "nan y". Thì cũng nhân thể, nói chuyện văn chương một tí, gọi là đưa chuyện thôi. Lúc về, anh Đàm dặn tôi: "Chú uống thuốc này phải kiêng ba điều. Một là, không được uống rượu, bia. Hai là, không được ngồi lâu. Ba là, không được nghĩ điều ác!". Vâng, những điều thầy thuốc dặn đều cần thiết cho cái bệnh chết tiệt của tôi, thực hiện được thì sẽ khỏi bệnh "nan giải", tốt lắm. Phi xe về nhà, cầm gói thuốc đặt lên bàn, tôi ngồi, nhìn mãi gói thuốc, tần ngần tệ. Ô nhỉ, cái thói hay phiêu bạt, hay kết nối bạn bè, rồi rượu, bia tùm lum, thì là dịp vung tay chém gió, coi giời bằng chiếc vung nồi thôi, và văn chương á, thì "văn mình vợ người" mà lị, tớ viết chỉ có hay trở lên nhé; cũng là dịp nói xấu vợ hay "buôn dưa lê" vớ vẩn, chơi đề đóm nhì nhằng, luôn mồm cằn nhằn chuyện chồng đi sớm về khuya, tức chết đi được. Thế là điều thứ nhất, thầy thuốc Đàm dặn dò, tôi không thực hiện được. Còn cái nghiệp chướng "giời đầy" viết văn, ngày nào tôi cũng hì hụi viết, không viết thì đọc, ờ, đọc có th nằm, còn viết phải ngồi chứ. Thế là điều thứ hai, thầy thuốc Đàm dặn dò, tôi cũng không thực hiện được. Chuyện nữa, tôi muốn viết về một nhân vật có tính cách tham lam, tàn nhẫn, thì buộc tôi phải suy nghĩ, hình dung ra các chi tiết, từ suy nghĩ đến hành động của nhân vật đó, xem nó tham lam cách gì, tàn nhẫn như thế nào, khốn khổ thay, như thế chẳng phải tôi đã nghĩ đến những điều ác, những điều xấu à? Vậy là, điều thứ ba, thầy thuốc Đàm dặn dò, tôi càng không thực hiện được. Thế nên, bệnh tôi "nan giải" càng "nan giải" hơn.

Thôi thì đành vậy!

Dưng mà, tôi cứ nghĩ mãi về anh Trần Cao Đàm, thời gian làm báo cả ngày, có khi cả tối nữa, vậy thời gian đâu để anh viết văn, mà viết văn phải "lao tâm khổ tứ" nhiều lắm, kia nữa, anh lại còn làm thuốc chữa bệnh cho người đời, thuốc giúp, thuốc cho, thuốc tặng, thuốc biếu, chẳng thấy tiền của vào túi thầy thuốc Đàm bao giờ. Cũng lạ, cái người cao lớn, từng qua trận mạc chiến trường Lào, từng tốt nghiệp Lớp Báo A 1975- 1979, Trường tuyên huấn Trung ương, về làm phóng viên phát thanh, mà sao anh hiền thế, sao anh trầm lặng thế, sao anh kiệm lời thế, có chuyện thì cũng chỉ thủ thỉ, nhỏ nhẹ, khiêm nhường lắm, mà chẳng mấy giao lưu bạn bè, chẳng mấy huyên náo chuyện báo chí, văn chương, chẳng mấy vung tay chém gió chuyện đánh nhau mù trời trên đất Lào kia. Có lẽ anh thuộc tạng người hay nghĩ, lặng thầm suy nghĩ, rồi lặng thầm làm việc với mục đích sâu xa, chẳng cần phải loa loa tướng lên mà làm gì. Bởi thế, tôi và anh chẳng mấy khi có dịp ngồi bên nhau tâm sự chuyện đời, chuyện văn chương, cho đã, nên tôi cũng chẳng rõ lắm chuyện anh viết văn vào lúc nào, viết như thế nào. Mà chuyện đời thường vòng vo như Tam quốc diễn nghĩa, cứ hết chương này đến chương khác, cứ phải xem hồi sau sẽ rõ. Chuyện của tôi, hồi sau sẽ rõ, là bất ngờ, tôi viết cuốn tiểu thuyết Cánh Đồng Chum mùa hoa ban, có chi tiết nhắc đến bài hát Cô gái Sầm Nưa của nhạc sĩ Trần Tiến, thấy thích ơi là thích, nên lúc tặng sách cho anh Trần Cao Đàm, tôi cao hứng khẽ hát mấy câu cho anh nghe: "Ơ này cô gái, ơ này cô gái Lào/ Mình em hát mình em lăm tơi/ Múa một mình sao không đẹp, không đẹp, không đẹp, không đẹp/ Em hỡi em ra đây cùng kêu lăm tơi khèn anh ngân vang/ Trông kìa đôi tay mềm/ Thân uốn cong lăm vông nhịp nhàng, nhịp nhàng, nhịp nhàng/ Anh đã nhìn thấy em từ xa, trong tiếng cười ấm vui bạn bè/ Ơi nụ cười sao duyên dáng/ La na la nuôn la, la na la y nuôn la... Hỡi cô em Sầm Nưa/ Nhớ thương anh mà đợi chờ"... Ừ nhỉ, hồi sau sẽ rõ, với Trần Cao Đàm, là chuyện tôi chợt nhớ ra, anh cũng có hẳn một cuốn tiểu thuyết Pa Thí mù sương, viết về chiến trường Pa Thí, Sầm Nưa, Lào. Bấy giờ, anh lính tình nguyện Trần Cao Đàm đang chiến đấu trong đội hình thuộc Tiểu đoàn 927, Đoàn 766, Sầm Nưa, lâu rồi. Ngẫm nghĩ thế nào mà tận năm 2000 anh mới cho ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết để đời ấy. Cũng là lính tình nguyện, tôi đọc Pa Thí mù sương ngấu nghiến, lòng bồi hồi nhớ lại những năm tháng chiến trường Lào gian khổ, ác liệt mà tự hào. Đồng cảm với anh Trần Cao Đàm lắm. Thì đấy, núi rừng Sầm Nưa, Lào có khác gì núi rừng Tây Bắc, Việt Nam ta. Núi cao. Vực thẳm. Mênh mông rừng già. Sương mù. Gió lốc. Nắng lửa. Mưa nguồn. Suối lũ. Vào độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn mịt mù. Mà có được đánh nhau với tên giặc Mỹ nào đâu, chỉ đánh nhau với lính đánh thuê Thái Lan và lính phỉ Vàng Pao thôi, cũng khốc liệt lắm. Khủng khiếp! Chết trận. Đau thương. Đói. Khát. Thiếu thốn vô cùng. Cũng là quân tình nguyện nhưng đơn vị của anh Trần Cao Đàm "cắm chốt" dài dài ở đất Lào chứ không kiểu "cơm Bắc, giặc Lào" ào vào trận, xong, lại rút về đất Việt như lính E165- F312 chúng tôi. Khỏi kể thì ai cũng biết chiến trận là ác liệt, là hy sinh, là thiếu thốn, nhưng với anh lính Trần Cao Đàm thì lúc nào cũng thiếu giấy để ghi chép chuyện chiến trường. Hết giấy ô ly, hết giấy pơ-luya rồi, thì viết trên vỏ bao thuốc lá, viết trên vỏ bao lương khô, chữ run rẩy, nhòe nhoẹt, loằng ngoằng, thì cứ viết.

Chuyện ấy không bao giờ quên dù rất xưa rồi!

Bây giờ, người lính Trần Cao Đàm đã là một nhà báo, anh tung tẩy viết tay  trên các thứ giấy tốt, có khi còn viết trên máy vi tính nữa, mà không chỉ viết báo, anh còn dành rất nhiều thời gian để viết văn, chẳng thế từng mang tiếng "ngoại tình" với văn chương, nghe buồn cười. Mấy chục năm làm báo, với tư cách một phóng viên, rồi Trưởng phòng Biên tập Phát thanh Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh Yên Bái, không biết từ lúc nào, anh lặng lẽ đọc sách, sưu tầm tư liệu, tìm gặp các nhân chứng lịch sử để viết hẳn một sê-ry truyện ký và tiểu thuyết lịch sử, mà chủ yếu là lịch sử cách mạng và kháng chiến của đồng bào các dân tộc Yên Bái, đậm nét nhất là ở Văn Chấn, Nghĩa Lộ, Trấn Yên, thị xã Yên Bái. Tôi được đọc hầu hết các tác phẩm của anh: Tập truyện ngắn Lẽ đời (Nxb Văn hóa dân tộc, 1996), các tiểu thuyết: Bến ngòi (Nxb Quân đội nhân dân, 1999), Pa Thí mù sương, Nxb Công an nhân dân, 2000), Âu Lâu bến lửa (Nxb Quân đội nhân dân, 2006), Đất Mường thời dông lũ (Nxb Công an nhân dân, 2014), Âm vang Ngòi Vần (Nxb Công an nhân dân, 2016). Tôi đọc với ước vọng vun vén thêm cho mình những tri thức và kinh nghiệm sống, đọc để học cách viết truyện lịch sử của anh. Có lúc chững lại, lặng suy tư, mới nhận thấy ở anh một thái độ sống đầy trách nhiệm và một tình yêu rất sâu nặng với quê hương. Không kể tiểu thuyết Pa Thí mù sương, các tiểu thuyết của anh đã cho tôi thêm một lần hiểu biết, ghi nhớ và không bao giờ quên những ngày cả dân tộc ta lầm than đau khổ dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật; không bao giờ quên những ngày nhân dân các dân tộc Yên Bái cùng với nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vùng lên giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Chính sử đã được ghi rõ trong sử sách, nhưng đọc Truyện ký Âm vang Ngòi Vần, tôi vẫn có một cảm nhận đặc biệt, rằng nó rung động từ trái tim tôi bởi hình ảnh các chiến sĩ cách mạng, các chiến sĩ cộng sản những ngày đầu đến Yên Bái- miền quê núi xa xôi, nhiều dân tộc, còn rất lạc hậu, để tuyên truyền vận động cách mạng, xây dựng cơ sở cách mạng, xây dựng lực lượng kháng chiến. Mong manh lắm. Mà nguy hiểm. Gian khổ. Bí mật. Âm thầm. Kiên nhẫn. Sứ mệnh lịch sử rất lớn nhưng các chiến sĩ cách mạng dấn thân vào cuộc cách mạng chỉ với lòng trung thành, sự dũng cảm, trí thông minh và một niềm tin không gì lay chuyển nổi, là niềm tin tất thắng. Tôi thường nghĩ, đó là những người lịch sử- người lịch sử Ngô Minh Loan, Đào Đình Bảng, Bình Phương, Nguyễn Phúc..., cùng với các chiến sĩ cách mạng Trần Huy Liệu, Vương Thừa Vũ, Trần Đức Sắc..., thoát tù từ Căng đồn Nghĩa Lộ ra, những người lịch sử ấy trở thành "trụ cột", trở thành người "mở cõi" cho lực lượng cách mạng và lực lượng kháng chiến ở Yên Bái. Còn mãi đây, lực lượng cách mạng và kháng chiến to lớn, vô địch, như "nước vỡ bờ", là người Kinh, người Tày, người Mông, người Dao, người Thái..., là tất thảy nhân dân các dân tộc Yên Bái đang bị thực dân Pháp và phát xít Nhật áp bức, nô lệ. Còn đây, chi bộ Đảng đầu tiên của Yên Bái được thành lập tại Đề-pô Ga Yên Bái. Còn đây, Đội Du kích Âu Cơ đầu tiên được thành lập ở Đồng Yếng, Vân Hội. Còn đây, những trận đánh giặc Pháp, giặc Nhật giữa núi rừng mênh mông. Còn đây, những Mai Văn Ty, Chí Dũng, Minh Đăng, Đinh Văn Hàm, Nguyễn Đức Quý, Nguyễn Kế Chung, Trương Thị Lai, Chu Sách, Lý Sâm, Quế Thụ, anh Huệ, anh Thà, anh Sinh..., cả những công chức của chế độ cũ được giác ngộ cách mạng, theo cách mạng, làm cách mạng, như ông Trần Đình Khánh, Đặng Bá Lâu, bếp Lan..., nhiều, nhiều nữa. Cái ngày lịch sử 20 tháng 8 năm 1945 và ngày 22 tháng 8 năm 1945 ấy, thị xã Yên Bái bỗng sôi sục, náo nức bởi "Cả một rừng cờ, rừng người, cả tiếng hoan hô, ủng hộ Việt Minh, nối nhau như sấm rền. Cả rừng người, rừng cờ ấy bỗng chuyển động, tiếng reo hò, hoan hô rộ lên. Trên lễ đài, các vị lãnh đạo Việt Minh bước ra, lần đầu công khai trước dân chúng. Rồi một người bước tới cúi chào, nói với đồng bào và thông báo sự cai trị của thực dân, phong kiến, phát xít đã hết. Chính quyền cách mạng đã nắm quyền, nền độc lập từ nay được bắt đầu. Tiếng vỗ tay, tiếng reo hò vang lên không ngớt như sấm!". Tôi đọc, mà cảm thấy cũng sôi sục, náo nức, vui sướng đến tột cùng, y như người đang trong cuộc nổi dậy giành chính quyền của nhân dân Yên Bái tháng 8 năm 1945. Tiếp đấy, người Yên Bái lại đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Tiểu thuyết Bến ngòi cách Âu Lâu bến lửa những 7 năm, tôi đọc và vẫn được gặp lại những người nông dân Yên Bái hiền lành, chất phác, lam làm và giầu lòng yêu nước vô cùng. Họ vừa chạy giặc, vừa chống càn, vừa chiến đấu giữ làng, phá bom, làm đường, tiếp tế cho bộ đội. Cái Bến ngòi ấy chính là cái bến Âu Lâu lịch sử trong Âu Lâu bến lửa, nơi những người dân Yên Bái tham gia đưa đoàn quân tiến vào Điện Biên Phủ, chỉ với ca-nô nhỏ, chỉ có bè gỗ nứa ghép thành cầu phao, mà chuyển qua dòng sông Hồng cuồn cuộn phù sa, nào bộ đội, nào xe kéo pháo, nào xe tải hàng, nào xe đạp thồ lương thực, cứ nườm nượp nối nhau, mặc máy bay giặc săm soi, mặc bom rơi đạn nổ. Cái khí chất anh hùng, dũng sĩ hình như có từ trong máu tổ tiên người Việt xửa xưa cho đến tận bây giờ. Mà không phải người khổng lồ nào đâu, vẫn những con người quê núi nhỏ bé, hiền lành, chân đất, tay cuốc tay cày, như chị Bái, anh Tài, anh Bùi, chị Tình, anh Định, ông Trọng, anh Thái, cô Xuyến, anh Ngoạn..., làm nên những chiến công đi vào lịch sử. Bây giờ, bến Âu Lâu vẫn đấy, làng Vạn Lâu vẫn đấy, phà Âu Lâu không còn nữa, chỉ sừng sững "ba ông tượng", tức là cái tượng đài ngay trên bến Âu Lâu ghi dấu những ngày từng là bến lửa anh hùng. Và từ Bến ngòi, Âu Lâu bến lửa đến Đất Mường thời dông lũ là cả một quá trình vận động kháng chiến oanh liệt của nhân dân các dân tộc Yên Bái. Đất Mường thời dông lũ mới chứng tỏ Trần Cao Đàm là "thổ dân" Mường Lò. Ngó qua "trích ngang" trong sách, biết anh sinh năm 1941 tại Nghĩa Lộ phố. Như thế, tuổi thơ và cả một thời trai trẻ, anh sống gắn bó máu thịt với quê hương Mường Lò, cho nên, bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, bao nhiêu hình ảnh thân thương của đồng bào các dân tộc quanh Mường Lò đã in đậm trong trái tim anh. Hẳn nào, anh thuộc các địa danh như thuộc bàn tay mình, đây Pú Chạng, Pú Lo, nậm Thia, nậm Nung, suối Hoa, Thái Lão, bản Hẻo, Sơn A, Cò Cọi..., kia Trạm Tấu, Bản Mù, Bản Lìu, Phình Hồ... Anh cũng hiểu khá kỹ phong tục tập quán của người Thái, người Mông, người Dao. Thế nên anh viết Đất Mường thời dông lũ có vẻ tung tẩy, khoáng đạt và rất tự tin. Thành thật, tôi không phải người làm phê bình văn học, nhưng đọc Đất Mường thời dông lũ, tôi nhận thấy Trần Cao Đàm có phần chăm chút hơn, suy tư hơn, nặng tình hơn cho trang viết, xây dựng được mấy nhân vật chính có tính cách khá điển hình. Một chỉ huy Bùi Hà kiên cường, dũng cảm, chân thành, có khi liều mình như chẳng có, mà sống rất giản dị, giầu tình cảm, gần gũi với đồng bào, đồng chí. Một Thống lý Giàng A Giao đầy uy quyền, dữ tính, rất đa nghi, nhưng khi đã đồng lòng đồng ý thì thuần phục, trung thành, nhất dạ tin cẩn. Rồi Mỉ. Rồi Cứ A Cấu. Rồi Trọng. Rồi Tom nữa. Mỗi người một nét tính cách khác nhau, nhưng đều chung một lòng theo cách mạng đánh Phăng-ký, đánh phỉ. Chuyện nghề, tôi thấy Đất Mường thời dông lũ được bố cục, kết nối kết cấu có vẻ rất cẩn trọng và lý lối. Cuốn tiểu thuyết gồm 30 chương, kể cả chương cuối nữa. Cứ đọc tên các chương thôi, nào Lửa, Bị bắt, Gieo gió, Lũ ống, Chuyện lạ, Đấu lý, Loài ong ác, Những chuyện bất ngờ, Dông lũ, Lòng người, Cuộc chiến đấu còn dài, Biết đánh biết thắng..., tôi đã cảm nhận một không khí đấu tranh cách mạng với bao nhiêu là cung bậc của sự nguy nan, bất ngờ và dữ dội. Các chương trong tiểu thuyết thường ngắn gọn, và đều "gói gém" một chuyện, một sự kiện có liên quan đến cả vùng "đất Mường" thời giặc giã. Đọc Đất Mường thời dông lũ, tôi nhớ nhất nhân vật Bùi Hà, Trọng, Tom, thống lý Giàng A Giao, Thống lý Thào Vái Sư, Mỉ, Cứ A Cấu... Bùi Hà chỉ huy bộ đội địa phương đánh địch ngay trong lòng địch. Anh hiểu, muốn thắng địch thì phải dựa vào dân, phải hiểu biết phong tục tập quán của dân, phải sống chết cùng với dân, mà dân ở đây là đồng bào Thái, đồng bào Mông, đồng bào Dao, đồng bào Tày, đồng bào Kinh; phải dũng cảm, chân thành, tìm cách liên kết và biết dựa vào sức mạnh của các chức sắc người Mèo đầy uy quyền, như Thống lý Giàng A Giao, Thống Lý Thào Vái Sư. Nên anh đã tìm mọi cách để tiếp cận Giàng A Giao, chuyện lý, chuyện tình, chuyện ta, chuyện Phăng-ký, chuyện phỉ, tâm tình chân thật, thẳng thắn, Bùi Hà nói rõ rằng: "Người mình có Chính phủ mình, do dân mình lựa chọn bầu ra, sao còn phải theo ai? Giặc Tây dù đang mạnh, nó ác càng không nên theo. Theo nó rồi đến con cháu mình nữa sống sao được. Người hiểu phải tìm cách đánh, đánh được mới giữ được đất mình.". Khi hiểu nhau, đồng lòng với nhau rồi, thì Bùi Hà với Giàng A Giao kết nghĩa anh em. Hai người cắt tiết gà pha rượu uống thề. Thống lý Giàng A Giao nói: "Tôi là Thống lý Giàng A Giao, cùng Đội trưởng Việt Minh là Bùi Hà, khấn trời, khấn đất, khấn các thần, xin được chứng kiến cho được làm anh em. Khi ông mặt trời dậy, là ban ngày, anh em chúng tôi cùng sống với Việt Minh. Khi ông mặt trời ngủ, tối đen mù mịt là người từ nơi khác đến cướp đất, bắt người, cướp của, bắt chúng tôi làm việc ác. Hai anh em chúng tôi cùng chọn Cụ Hồ, chọn Chính phủ là người thực bụng vì dân mà theo, làm nơi trao xương gửi thịt. Vì bọn giặc ác mà phải chết, chúng tôi vẫn theo về hướng ánh sáng...". Sau lời thề, Bùi Hà làm em, được gọi tên người Mèo là Giàng A Páo- Páo là viên ngọc quý. Từ đây, Bùi Hà cùng với đồng đội của mình, được sự ủng hộ của đồng bào các dân tộc xung quanh "đất Mường", quân ta đã đánh tan bọn phỉ. Vâng, câu chuyện tiễu phỉ ở miền núi Tây Bắc đã được ghi chép nhiều trong sử sách. Trần Cao Đàm chỉ là người chép lại bằng một truyện có ngôn ngữ văn chương, có hình ảnh nhân vật hiện lên qua hành động, lời nói, tính cách và có chương hồi, có kết cấu chặt chẽ, làm sao cho câu chuyện được hấp dẫn hơn việc chép sử đơn thuần. Tóm lại, cuộc tiu phỉ ở "đất Mường" tuy cam go, có đổ máu, hy sinh, nhưng quân ta đã chiến thắng. Cái ngày "Hoàn thành nhiệm vụ trở về, đội quân chiến thắng qua bản vẫy chào nhân dân. Hôm nào lên đây, đơn vị lần mò trong rừng, nay trở về giữa ban ngày, giữa niềm vui. Dân bản đổ ra mừng tiễn. Nắng gió xuân xôn xao. Cây rừng múa cành vẫy lá reo vui. Dòng suối từ dưới khe xa ào ào bản nhạc tươi trẻ dội lên góp vui cùng. Cả người, cả rừng núi, trời đất như cùng reo vui trong nắng xuân". Ngồi đọc truyện mà tôi cảm tưởng như mình đang cùng với anh Trần Cao Đàm ùa vào đoàn quân chiến thắng ấy. Gấp sách, tôi cố hình dung lại câu chuyện, ờ nhỉ, chừng gần 210 trang nội dung mà Trần Cao Đàm cắt đặt những 30 chương, có tiêu đề hấp dẫn cho mỗi chương, và đã chủ ý xây dựng một vài nhân vật điển hình rõ ra nét điển hình- cái được gọi là "đặc trưng" của truyện, nó rất khác với sưu tầm và biên soạn ở chỗ tác phẩm do tác giả chế tác ra, có hư cấu mà thành. Một điều nữa, tôi muốn nói tới tất cả các truyện lịch sử của Trần Cao Đàm, rằng anh viết với tấm lòng chân thật, rất quí, nhưng rõ rành sách ghi biên mục nhiều tài liệu tham khảo, rất cụ thể, cùng lời kể của các nhân chứng lịch sử, cùng tên thật, cùng sự kiện có thật trong thực tế lịch sử, đã "tố giác" anh chuyên vào sưu tầm và biên soạn, chứ chưa nhập hẳn vào cuộc chế tác tác phẩm văn học. Vẫn biết, viết truyện lịch sử là rất khó. Nó nhạy cảm lắm! Tỷ như anh đặt tên nhân vật không có thật- Bùi Hà chẳng hạn, trong một thực tế lịch sử có thật, mặc nhiên dẫn đến sự "trớ trêu" và rất "sái" với những người lịch sử còn đang sống bên ta. Sự nhầm lẫn thể loại trong quá trình viết truyện đôi khi gây nên nhiều phiền toái, nhiều đàm tiếu không đáng có.

Tôi lạm bàn một chút thế thôi, chứ người chân thật đến tận cùng chân thật như nhà báo, nhà văn, thầy thuốc Nam Trần Cao Đàm thì, có đầy lên Bắc Cực, anh cũng vẫn viết như thế mà thôi. Ấy là cái tạng của mỗi nhà văn. Vẫn phải, "Văn là người" mà lị! Dưng mà, tôi thầm nghĩ, giữa cái biển sách văn chương chữ nghĩa nước mình, giữa cái thời khốc liệt của cơ chế thị trường, bao nhiêu người hì hụi với tiền bạc, hăm hở với tiền bạc, chằm bặp với tiền bạc, ngắc ngoải với tiền bạc, mất nhân cách và mất cả mạng sống vì tiền bạc, thì Trần Cao Đàm vẫn lặng thầm, ấp iu cùng chữ nghĩa, và lặng lẽ hiến dâng cho đời, hiến dâng cho quê hương những cuốn sách quí, truyền lại mãi hậu thế niềm tự hào về cuộc cách mạng và kháng chiến anh hùng của nhân dân các dân tộc Yên Bái. Và tôi được biết, Trần Cao Đàm còn có một tác phẩm mới nữa, đương nằm tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, cũng viết về lịch sử quê hương anh.

Như thế, lịch sử cách mạng và kháng chiến của các dân tộc Yên Bái là một nguồn "nguyên liệu" quí, là một cái mỏ vàng lấp lánh sử vàng để cho nhà văn Trần Cao Đàm khai thác mãi, viết mãi, vẫn chưa hết, vẫn chưa có hồi kết thúc. Tỏ lòng yêu quí anh, muốn hòa điệu cùng ý nghĩ, tôi chép tặng anh bài dân ca Mông:

Lời hát biết hát, không biết kết thúc

Như khóm ngải tàn lại tiếp khóm ngải xanh

Bài hát biết hát, không biết kết thúc

Kết thúc như hoa đào nở trên núi cao.

                                                            

                                                        H.T.S

   

 

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 66<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter