Mỏ truyện của Trần Cao Đàm

Hoàng Thế Sinh

 Một hôm, tôi vào nhà anh Trần Cao Đàm, không phải để đàm đạo văn chương, mà tôi tìm anh xin thuốc chữa bệnh. Tôi bệnh "nan giải" chứ chưa phải bệnh "nan y". Thì cũng nhân thể, nói chuyện văn chương một tí, gọi là đưa chuyện thôi. Lúc về, anh Đàm dặn tôi: "Chú uống thuốc này phải kiêng ba điều. Một là, không được uống rượu, bia. Hai là, không được ngồi lâu. Ba là, không được nghĩ điều ác!". Vâng, những điều thầy thuốc dặn đều cần thiết cho cái bệnh chết tiệt của tôi, thực hiện được thì sẽ khỏi bệnh "nan giải", tốt lắm. Phi xe về nhà, cầm gói thuốc đặt lên bàn, tôi ngồi, nhìn mãi gói thuốc, tần ngần tệ. Ô nhỉ, cái thói hay phiêu bạt, hay kết nối bạn bè, rồi rượu, bia tùm lum, thì là dịp vung tay chém gió, coi giời bằng chiếc vung nồi thôi, và văn chương á, thì "văn mình vợ người" mà lị, tớ viết chỉ có hay trở lên nhé; cũng là dịp nói xấu vợ hay "buôn dưa lê" vớ vẩn, chơi đề đóm nhì nhằng, luôn mồm cằn nhằn chuyện chồng đi sớm về khuya, tức chết đi được. Thế là điều thứ nhất, thầy thuốc Đàm dặn dò, tôi không thực hiện được. Còn cái nghiệp chướng "giời đầy" viết văn, ngày nào tôi cũng hì hụi viết, không viết thì đọc, ờ, đọc có th nằm, còn viết phải ngồi chứ. Thế là điều thứ hai, thầy thuốc Đàm dặn dò, tôi cũng không thực hiện được. Chuyện nữa, tôi muốn viết về một nhân vật có tính cách tham lam, tàn nhẫn, thì buộc tôi phải suy nghĩ, hình dung ra các chi tiết, từ suy nghĩ đến hành động của nhân vật đó, xem nó tham lam cách gì, tàn nhẫn như thế nào, khốn khổ thay, như thế chẳng phải tôi đã nghĩ đến những điều ác, những điều xấu à? Vậy là, điều thứ ba, thầy thuốc Đàm dặn dò, tôi càng không thực hiện được. Thế nên, bệnh tôi "nan giải" càng "nan giải" hơn.

Thôi thì đành vậy!

Dưng mà, tôi cứ nghĩ mãi về anh Trần Cao Đàm, thời gian làm báo cả ngày, có khi cả tối nữa, vậy thời gian đâu để anh viết văn, mà viết văn phải "lao tâm khổ tứ" nhiều lắm, kia nữa, anh lại còn làm thuốc chữa bệnh cho người đời, thuốc giúp, thuốc cho, thuốc tặng, thuốc biếu, chẳng thấy tiền của vào túi thầy thuốc Đàm bao giờ. Cũng lạ, cái người cao lớn, từng qua trận mạc chiến trường Lào, từng tốt nghiệp Lớp Báo A 1975- 1979, Trường tuyên huấn Trung ương, về làm phóng viên phát thanh, mà sao anh hiền thế, sao anh trầm lặng thế, sao anh kiệm lời thế, có chuyện thì cũng chỉ thủ thỉ, nhỏ nhẹ, khiêm nhường lắm, mà chẳng mấy giao lưu bạn bè, chẳng mấy huyên náo chuyện báo chí, văn chương, chẳng mấy vung tay chém gió chuyện đánh nhau mù trời trên đất Lào kia. Có lẽ anh thuộc tạng người hay nghĩ, lặng thầm suy nghĩ, rồi lặng thầm làm việc với mục đích sâu xa, chẳng cần phải loa loa tướng lên mà làm gì. Bởi thế, tôi và anh chẳng mấy khi có dịp ngồi bên nhau tâm sự chuyện đời, chuyện văn chương, cho đã, nên tôi cũng chẳng rõ lắm chuyện anh viết văn vào lúc nào, viết như thế nào. Mà chuyện đời thường vòng vo như Tam quốc diễn nghĩa, cứ hết chương này đến chương khác, cứ phải xem hồi sau sẽ rõ. Chuyện của tôi, hồi sau sẽ rõ, là bất ngờ, tôi viết cuốn tiểu thuyết Cánh Đồng Chum mùa hoa ban, có chi tiết nhắc đến bài hát Cô gái Sầm Nưa của nhạc sĩ Trần Tiến, thấy thích ơi là thích, nên lúc tặng sách cho anh Trần Cao Đàm, tôi cao hứng khẽ hát mấy câu cho anh nghe: "Ơ này cô gái, ơ này cô gái Lào/ Mình em hát mình em lăm tơi/ Múa một mình sao không đẹp, không đẹp, không đẹp, không đẹp/ Em hỡi em ra đây cùng kêu lăm tơi khèn anh ngân vang/ Trông kìa đôi tay mềm/ Thân uốn cong lăm vông nhịp nhàng, nhịp nhàng, nhịp nhàng/ Anh đã nhìn thấy em từ xa, trong tiếng cười ấm vui bạn bè/ Ơi nụ cười sao duyên dáng/ La na la nuôn la, la na la y nuôn la... Hỡi cô em Sầm Nưa/ Nhớ thương anh mà đợi chờ"... Ừ nhỉ, hồi sau sẽ rõ, với Trần Cao Đàm, là chuyện tôi chợt nhớ ra, anh cũng có hẳn một cuốn tiểu thuyết Pa Thí mù sương, viết về chiến trường Pa Thí, Sầm Nưa, Lào. Bấy giờ, anh lính tình nguyện Trần Cao Đàm đang chiến đấu trong đội hình thuộc Tiểu đoàn 927, Đoàn 766, Sầm Nưa, lâu rồi. Ngẫm nghĩ thế nào mà tận năm 2000 anh mới cho ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết để đời ấy. Cũng là lính tình nguyện, tôi đọc Pa Thí mù sương ngấu nghiến, lòng bồi hồi nhớ lại những năm tháng chiến trường Lào gian khổ, ác liệt mà tự hào. Đồng cảm với anh Trần Cao Đàm lắm. Thì đấy, núi rừng Sầm Nưa, Lào có khác gì núi rừng Tây Bắc, Việt Nam ta. Núi cao. Vực thẳm. Mênh mông rừng già. Sương mù. Gió lốc. Nắng lửa. Mưa nguồn. Suối lũ. Vào độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn mịt mù. Mà có được đánh nhau với tên giặc Mỹ nào đâu, chỉ đánh nhau với lính đánh thuê Thái Lan và lính phỉ Vàng Pao thôi, cũng khốc liệt lắm. Khủng khiếp! Chết trận. Đau thương. Đói. Khát. Thiếu thốn vô cùng. Cũng là quân tình nguyện nhưng đơn vị của anh Trần Cao Đàm "cắm chốt" dài dài ở đất Lào chứ không kiểu "cơm Bắc, giặc Lào" ào vào trận, xong, lại rút về đất Việt như lính E165- F312 chúng tôi. Khỏi kể thì ai cũng biết chiến trận là ác liệt, là hy sinh, là thiếu thốn, nhưng với anh lính Trần Cao Đàm thì lúc nào cũng thiếu giấy để ghi chép chuyện chiến trường. Hết giấy ô ly, hết giấy pơ-luya rồi, thì viết trên vỏ bao thuốc lá, viết trên vỏ bao lương khô, chữ run rẩy, nhòe nhoẹt, loằng ngoằng, thì cứ viết.

Chuyện ấy không bao giờ quên dù rất xưa rồi!

Bây giờ, người lính Trần Cao Đàm đã là một nhà báo, anh tung tẩy viết tay  trên các thứ giấy tốt, có khi còn viết trên máy vi tính nữa, mà không chỉ viết báo, anh còn dành rất nhiều thời gian để viết văn, chẳng thế từng mang tiếng "ngoại tình" với văn chương, nghe buồn cười. Mấy chục năm làm báo, với tư cách một phóng viên, rồi Trưởng phòng Biên tập Phát thanh Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh Yên Bái, không biết từ lúc nào, anh lặng lẽ đọc sách, sưu tầm tư liệu, tìm gặp các nhân chứng lịch sử để viết hẳn một sê-ry truyện ký và tiểu thuyết lịch sử, mà chủ yếu là lịch sử cách mạng và kháng chiến của đồng bào các dân tộc Yên Bái, đậm nét nhất là ở Văn Chấn, Nghĩa Lộ, Trấn Yên, thị xã Yên Bái. Tôi được đọc hầu hết các tác phẩm của anh: Tập truyện ngắn Lẽ đời (Nxb Văn hóa dân tộc, 1996), các tiểu thuyết: Bến ngòi (Nxb Quân đội nhân dân, 1999), Pa Thí mù sương, Nxb Công an nhân dân, 2000), Âu Lâu bến lửa (Nxb Quân đội nhân dân, 2006), Đất Mường thời dông lũ (Nxb Công an nhân dân, 2014), Âm vang Ngòi Vần (Nxb Công an nhân dân, 2016). Tôi đọc với ước vọng vun vén thêm cho mình những tri thức và kinh nghiệm sống, đọc để học cách viết truyện lịch sử của anh. Có lúc chững lại, lặng suy tư, mới nhận thấy ở anh một thái độ sống đầy trách nhiệm và một tình yêu rất sâu nặng với quê hương. Không kể tiểu thuyết Pa Thí mù sương, các tiểu thuyết của anh đã cho tôi thêm một lần hiểu biết, ghi nhớ và không bao giờ quên những ngày cả dân tộc ta lầm than đau khổ dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật; không bao giờ quên những ngày nhân dân các dân tộc Yên Bái cùng với nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vùng lên giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Chính sử đã được ghi rõ trong sử sách, nhưng đọc Truyện ký Âm vang Ngòi Vần, tôi vẫn có một cảm nhận đặc biệt, rằng nó rung động từ trái tim tôi bởi hình ảnh các chiến sĩ cách mạng, các chiến sĩ cộng sản những ngày đầu đến Yên Bái- miền quê núi xa xôi, nhiều dân tộc, còn rất lạc hậu, để tuyên truyền vận động cách mạng, xây dựng cơ sở cách mạng, xây dựng lực lượng kháng chiến. Mong manh lắm. Mà nguy hiểm. Gian khổ. Bí mật. Âm thầm. Kiên nhẫn. Sứ mệnh lịch sử rất lớn nhưng các chiến sĩ cách mạng dấn thân vào cuộc cách mạng chỉ với lòng trung thành, sự dũng cảm, trí thông minh và một niềm tin không gì lay chuyển nổi, là niềm tin tất thắng. Tôi thường nghĩ, đó là những người lịch sử- người lịch sử Ngô Minh Loan, Đào Đình Bảng, Bình Phương, Nguyễn Phúc..., cùng với các chiến sĩ cách mạng Trần Huy Liệu, Vương Thừa Vũ, Trần Đức Sắc..., thoát tù từ Căng đồn Nghĩa Lộ ra, những người lịch sử ấy trở thành "trụ cột", trở thành người "mở cõi" cho lực lượng cách mạng và lực lượng kháng chiến ở Yên Bái. Còn mãi đây, lực lượng cách mạng và kháng chiến to lớn, vô địch, như "nước vỡ bờ", là người Kinh, người Tày, người Mông, người Dao, người Thái..., là tất thảy nhân dân các dân tộc Yên Bái đang bị thực dân Pháp và phát xít Nhật áp bức, nô lệ. Còn đây, chi bộ Đảng đầu tiên của Yên Bái được thành lập tại Đề-pô Ga Yên Bái. Còn đây, Đội Du kích Âu Cơ đầu tiên được thành lập ở Đồng Yếng, Vân Hội. Còn đây, những trận đánh giặc Pháp, giặc Nhật giữa núi rừng mênh mông. Còn đây, những Mai Văn Ty, Chí Dũng, Minh Đăng, Đinh Văn Hàm, Nguyễn Đức Quý, Nguyễn Kế Chung, Trương Thị Lai, Chu Sách, Lý Sâm, Quế Thụ, anh Huệ, anh Thà, anh Sinh..., cả những công chức của chế độ cũ được giác ngộ cách mạng, theo cách mạng, làm cách mạng, như ông Trần Đình Khánh, Đặng Bá Lâu, bếp Lan..., nhiều, nhiều nữa. Cái ngày lịch sử 20 tháng 8 năm 1945 và ngày 22 tháng 8 năm 1945 ấy, thị xã Yên Bái bỗng sôi sục, náo nức bởi "Cả một rừng cờ, rừng người, cả tiếng hoan hô, ủng hộ Việt Minh, nối nhau như sấm rền. Cả rừng người, rừng cờ ấy bỗng chuyển động, tiếng reo hò, hoan hô rộ lên. Trên lễ đài, các vị lãnh đạo Việt Minh bước ra, lần đầu công khai trước dân chúng. Rồi một người bước tới cúi chào, nói với đồng bào và thông báo sự cai trị của thực dân, phong kiến, phát xít đã hết. Chính quyền cách mạng đã nắm quyền, nền độc lập từ nay được bắt đầu. Tiếng vỗ tay, tiếng reo hò vang lên không ngớt như sấm!". Tôi đọc, mà cảm thấy cũng sôi sục, náo nức, vui sướng đến tột cùng, y như người đang trong cuộc nổi dậy giành chính quyền của nhân dân Yên Bái tháng 8 năm 1945. Tiếp đấy, người Yên Bái lại đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Tiểu thuyết Bến ngòi cách Âu Lâu bến lửa những 7 năm, tôi đọc và vẫn được gặp lại những người nông dân Yên Bái hiền lành, chất phác, lam làm và giầu lòng yêu nước vô cùng. Họ vừa chạy giặc, vừa chống càn, vừa chiến đấu giữ làng, phá bom, làm đường, tiếp tế cho bộ đội. Cái Bến ngòi ấy chính là cái bến Âu Lâu lịch sử trong Âu Lâu bến lửa, nơi những người dân Yên Bái tham gia đưa đoàn quân tiến vào Điện Biên Phủ, chỉ với ca-nô nhỏ, chỉ có bè gỗ nứa ghép thành cầu phao, mà chuyển qua dòng sông Hồng cuồn cuộn phù sa, nào bộ đội, nào xe kéo pháo, nào xe tải hàng, nào xe đạp thồ lương thực, cứ nườm nượp nối nhau, mặc máy bay giặc săm soi, mặc bom rơi đạn nổ. Cái khí chất anh hùng, dũng sĩ hình như có từ trong máu tổ tiên người Việt xửa xưa cho đến tận bây giờ. Mà không phải người khổng lồ nào đâu, vẫn những con người quê núi nhỏ bé, hiền lành, chân đất, tay cuốc tay cày, như chị Bái, anh Tài, anh Bùi, chị Tình, anh Định, ông Trọng, anh Thái, cô Xuyến, anh Ngoạn..., làm nên những chiến công đi vào lịch sử. Bây giờ, bến Âu Lâu vẫn đấy, làng Vạn Lâu vẫn đấy, phà Âu Lâu không còn nữa, chỉ sừng sững "ba ông tượng", tức là cái tượng đài ngay trên bến Âu Lâu ghi dấu những ngày từng là bến lửa anh hùng. Và từ Bến ngòi, Âu Lâu bến lửa đến Đất Mường thời dông lũ là cả một quá trình vận động kháng chiến oanh liệt của nhân dân các dân tộc Yên Bái. Đất Mường thời dông lũ mới chứng tỏ Trần Cao Đàm là "thổ dân" Mường Lò. Ngó qua "trích ngang" trong sách, biết anh sinh năm 1941 tại Nghĩa Lộ phố. Như thế, tuổi thơ và cả một thời trai trẻ, anh sống gắn bó máu thịt với quê hương Mường Lò, cho nên, bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, bao nhiêu hình ảnh thân thương của đồng bào các dân tộc quanh Mường Lò đã in đậm trong trái tim anh. Hẳn nào, anh thuộc các địa danh như thuộc bàn tay mình, đây Pú Chạng, Pú Lo, nậm Thia, nậm Nung, suối Hoa, Thái Lão, bản Hẻo, Sơn A, Cò Cọi..., kia Trạm Tấu, Bản Mù, Bản Lìu, Phình Hồ... Anh cũng hiểu khá kỹ phong tục tập quán của người Thái, người Mông, người Dao. Thế nên anh viết Đất Mường thời dông lũ có vẻ tung tẩy, khoáng đạt và rất tự tin. Thành thật, tôi không phải người làm phê bình văn học, nhưng đọc Đất Mường thời dông lũ, tôi nhận thấy Trần Cao Đàm có phần chăm chút hơn, suy tư hơn, nặng tình hơn cho trang viết, xây dựng được mấy nhân vật chính có tính cách khá điển hình. Một chỉ huy Bùi Hà kiên cường, dũng cảm, chân thành, có khi liều mình như chẳng có, mà sống rất giản dị, giầu tình cảm, gần gũi với đồng bào, đồng chí. Một Thống lý Giàng A Giao đầy uy quyền, dữ tính, rất đa nghi, nhưng khi đã đồng lòng đồng ý thì thuần phục, trung thành, nhất dạ tin cẩn. Rồi Mỉ. Rồi Cứ A Cấu. Rồi Trọng. Rồi Tom nữa. Mỗi người một nét tính cách khác nhau, nhưng đều chung một lòng theo cách mạng đánh Phăng-ký, đánh phỉ. Chuyện nghề, tôi thấy Đất Mường thời dông lũ được bố cục, kết nối kết cấu có vẻ rất cẩn trọng và lý lối. Cuốn tiểu thuyết gồm 30 chương, kể cả chương cuối nữa. Cứ đọc tên các chương thôi, nào Lửa, Bị bắt, Gieo gió, Lũ ống, Chuyện lạ, Đấu lý, Loài ong ác, Những chuyện bất ngờ, Dông lũ, Lòng người, Cuộc chiến đấu còn dài, Biết đánh biết thắng..., tôi đã cảm nhận một không khí đấu tranh cách mạng với bao nhiêu là cung bậc của sự nguy nan, bất ngờ và dữ dội. Các chương trong tiểu thuyết thường ngắn gọn, và đều "gói gém" một chuyện, một sự kiện có liên quan đến cả vùng "đất Mường" thời giặc giã. Đọc Đất Mường thời dông lũ, tôi nhớ nhất nhân vật Bùi Hà, Trọng, Tom, thống lý Giàng A Giao, Thống lý Thào Vái Sư, Mỉ, Cứ A Cấu... Bùi Hà chỉ huy bộ đội địa phương đánh địch ngay trong lòng địch. Anh hiểu, muốn thắng địch thì phải dựa vào dân, phải hiểu biết phong tục tập quán của dân, phải sống chết cùng với dân, mà dân ở đây là đồng bào Thái, đồng bào Mông, đồng bào Dao, đồng bào Tày, đồng bào Kinh; phải dũng cảm, chân thành, tìm cách liên kết và biết dựa vào sức mạnh của các chức sắc người Mèo đầy uy quyền, như Thống lý Giàng A Giao, Thống Lý Thào Vái Sư. Nên anh đã tìm mọi cách để tiếp cận Giàng A Giao, chuyện lý, chuyện tình, chuyện ta, chuyện Phăng-ký, chuyện phỉ, tâm tình chân thật, thẳng thắn, Bùi Hà nói rõ rằng: "Người mình có Chính phủ mình, do dân mình lựa chọn bầu ra, sao còn phải theo ai? Giặc Tây dù đang mạnh, nó ác càng không nên theo. Theo nó rồi đến con cháu mình nữa sống sao được. Người hiểu phải tìm cách đánh, đánh được mới giữ được đất mình.". Khi hiểu nhau, đồng lòng với nhau rồi, thì Bùi Hà với Giàng A Giao kết nghĩa anh em. Hai người cắt tiết gà pha rượu uống thề. Thống lý Giàng A Giao nói: "Tôi là Thống lý Giàng A Giao, cùng Đội trưởng Việt Minh là Bùi Hà, khấn trời, khấn đất, khấn các thần, xin được chứng kiến cho được làm anh em. Khi ông mặt trời dậy, là ban ngày, anh em chúng tôi cùng sống với Việt Minh. Khi ông mặt trời ngủ, tối đen mù mịt là người từ nơi khác đến cướp đất, bắt người, cướp của, bắt chúng tôi làm việc ác. Hai anh em chúng tôi cùng chọn Cụ Hồ, chọn Chính phủ là người thực bụng vì dân mà theo, làm nơi trao xương gửi thịt. Vì bọn giặc ác mà phải chết, chúng tôi vẫn theo về hướng ánh sáng...". Sau lời thề, Bùi Hà làm em, được gọi tên người Mèo là Giàng A Páo- Páo là viên ngọc quý. Từ đây, Bùi Hà cùng với đồng đội của mình, được sự ủng hộ của đồng bào các dân tộc xung quanh "đất Mường", quân ta đã đánh tan bọn phỉ. Vâng, câu chuyện tiễu phỉ ở miền núi Tây Bắc đã được ghi chép nhiều trong sử sách. Trần Cao Đàm chỉ là người chép lại bằng một truyện có ngôn ngữ văn chương, có hình ảnh nhân vật hiện lên qua hành động, lời nói, tính cách và có chương hồi, có kết cấu chặt chẽ, làm sao cho câu chuyện được hấp dẫn hơn việc chép sử đơn thuần. Tóm lại, cuộc tiu phỉ ở "đất Mường" tuy cam go, có đổ máu, hy sinh, nhưng quân ta đã chiến thắng. Cái ngày "Hoàn thành nhiệm vụ trở về, đội quân chiến thắng qua bản vẫy chào nhân dân. Hôm nào lên đây, đơn vị lần mò trong rừng, nay trở về giữa ban ngày, giữa niềm vui. Dân bản đổ ra mừng tiễn. Nắng gió xuân xôn xao. Cây rừng múa cành vẫy lá reo vui. Dòng suối từ dưới khe xa ào ào bản nhạc tươi trẻ dội lên góp vui cùng. Cả người, cả rừng núi, trời đất như cùng reo vui trong nắng xuân". Ngồi đọc truyện mà tôi cảm tưởng như mình đang cùng với anh Trần Cao Đàm ùa vào đoàn quân chiến thắng ấy. Gấp sách, tôi cố hình dung lại câu chuyện, ờ nhỉ, chừng gần 210 trang nội dung mà Trần Cao Đàm cắt đặt những 30 chương, có tiêu đề hấp dẫn cho mỗi chương, và đã chủ ý xây dựng một vài nhân vật điển hình rõ ra nét điển hình- cái được gọi là "đặc trưng" của truyện, nó rất khác với sưu tầm và biên soạn ở chỗ tác phẩm do tác giả chế tác ra, có hư cấu mà thành. Một điều nữa, tôi muốn nói tới tất cả các truyện lịch sử của Trần Cao Đàm, rằng anh viết với tấm lòng chân thật, rất quí, nhưng rõ rành sách ghi biên mục nhiều tài liệu tham khảo, rất cụ thể, cùng lời kể của các nhân chứng lịch sử, cùng tên thật, cùng sự kiện có thật trong thực tế lịch sử, đã "tố giác" anh chuyên vào sưu tầm và biên soạn, chứ chưa nhập hẳn vào cuộc chế tác tác phẩm văn học. Vẫn biết, viết truyện lịch sử là rất khó. Nó nhạy cảm lắm! Tỷ như anh đặt tên nhân vật không có thật- Bùi Hà chẳng hạn, trong một thực tế lịch sử có thật, mặc nhiên dẫn đến sự "trớ trêu" và rất "sái" với những người lịch sử còn đang sống bên ta. Sự nhầm lẫn thể loại trong quá trình viết truyện đôi khi gây nên nhiều phiền toái, nhiều đàm tiếu không đáng có.

Tôi lạm bàn một chút thế thôi, chứ người chân thật đến tận cùng chân thật như nhà báo, nhà văn, thầy thuốc Nam Trần Cao Đàm thì, có đầy lên Bắc Cực, anh cũng vẫn viết như thế mà thôi. Ấy là cái tạng của mỗi nhà văn. Vẫn phải, "Văn là người" mà lị! Dưng mà, tôi thầm nghĩ, giữa cái biển sách văn chương chữ nghĩa nước mình, giữa cái thời khốc liệt của cơ chế thị trường, bao nhiêu người hì hụi với tiền bạc, hăm hở với tiền bạc, chằm bặp với tiền bạc, ngắc ngoải với tiền bạc, mất nhân cách và mất cả mạng sống vì tiền bạc, thì Trần Cao Đàm vẫn lặng thầm, ấp iu cùng chữ nghĩa, và lặng lẽ hiến dâng cho đời, hiến dâng cho quê hương những cuốn sách quí, truyền lại mãi hậu thế niềm tự hào về cuộc cách mạng và kháng chiến anh hùng của nhân dân các dân tộc Yên Bái. Và tôi được biết, Trần Cao Đàm còn có một tác phẩm mới nữa, đương nằm tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, cũng viết về lịch sử quê hương anh.

Như thế, lịch sử cách mạng và kháng chiến của các dân tộc Yên Bái là một nguồn "nguyên liệu" quí, là một cái mỏ vàng lấp lánh sử vàng để cho nhà văn Trần Cao Đàm khai thác mãi, viết mãi, vẫn chưa hết, vẫn chưa có hồi kết thúc. Tỏ lòng yêu quí anh, muốn hòa điệu cùng ý nghĩ, tôi chép tặng anh bài dân ca Mông:

Lời hát biết hát, không biết kết thúc

Như khóm ngải tàn lại tiếp khóm ngải xanh

Bài hát biết hát, không biết kết thúc

Kết thúc như hoa đào nở trên núi cao.

                                                            

                                                        H.T.S

   

 

 

 

Các tin khác:

16-20 of 66<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter