Nhà văn Hoàng Thế Sinh với tiểu thuyết "Cánh đồng Chum mùa hoa Ban"

Nguyễn Hiền Lương 

"Cánh đồng Chum mùa hoa Ban" tập sách thứ 18 và là tiểu thuyết thứ 8 của nhà văn Hoàng Thế Sinh, NXB Hội Nhà văn, quý I/2021 gồm 7 chương: Đường vào chiến dịch, Lính tò te đánh trận, Bẫy mìn Claymo, Cao điểm rỗng, Một mình và ác thú, Cờ Pa- thét Lào, Vỹ thanh. Tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh cách mạnh, phản ánh cuộc chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Lào thời chống Mỹ.

Trong "Cánh đồng Chum mùa hoa Ban", các sự kiện, nhân vật hầu như đều có nguyên mẫu. Diễn biến sự kiện, hành động của nhân vật đều được phản ánh qua cái nhìn của nhân vật Hoàng, chiến sĩ điện báo, trực tiếp tham gia chiến dịch, cũng là hiện thân tác giả. Các nhân vật: Tiểu đoàn trưởng Tung, Tiểu đội trưởng Đán, chiến sĩ Chước, Lập, Thắng, Bình, Qui, Đức, Phú, Minh, Cảnh, Thanh, Thành, Lai... đều là những người bạn cùng học, cùng quê, hoặc đồng đội thân thiết của Hoàng. Nên có thể xem "Cánh đồng Chum mùa hoa Ban" mang tính tự truyện. 5 trận đánh được phản ánh trong tác phẩm: Trận đánh đồn Phu Tâng, trận đánh đồn Sảm Thông, trận đánh cao điểm 1978, trận đánh đồn Tà Can, trận đánh cứ điểm Nam Tra, là một phần trong chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum- Xiêng khoảng năm 1972 nhằm bảo vệ vùng giải phóng Cách đồng Chum của liên quân Việt- Lào. Thắng lợi của Chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum- Xiêng Khoảng chẳng những góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975); cổ vũ mạnh mẽ và tạo điều kiện cho quân và dân Lào liên tiếp nổi dậy, giành chính quyền trong cả nước và thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào vào ngày 2/12/1975 mà còn làm phong phú thêm lý luận tác chiến chiến dịch phòng ngự và là bước phát triển về nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. 

Bìa tập Tiểu thuyết Cánh đồng Chum mùa hoa Ban

 

Với sự am hiểu thực tế chiến trường và là người trong cuộc, nhà văn đã tái hiện khá chi tiết những đặc thù từng cứ điểm địch, tình huống tác chiến, diễn biến của từng trận đánh và luôn có sự gắn kết giữa hiện thực chiến đấu với cảm xúc, suy nghĩ của những người lính trẻ trước, trong và sau các trận đánh. Trận đánh đồn Phu Tâng, trận đầu tiên của những người lính trẻ, vừa hành quân tới chiến trường. Đêm trước giờ ra trận, Hoàng và đồng đội vừa hình dung về trận đánh, vừa nhớ về quê nhà, hình dung ra những người thân của mình. Chờ giờ G, Hoàng thì thầm đọc bài thơ "Đợi anh về" của nhà thơ Nga Simonov cho đồng đội nghe. Gần sáng, sau 2 tiếng nổ như sét đánh, giặc trên đồn gào thét náo loạn. Cuộc giao chiến bắt đầu, giặc gọi máy bay T28 đến thả bom vung vãi, pháo 37 của ta cũng bắn lên dữ dội. Quá trưa mặt trời như dội lửa, ta quyết định đánh cường tập. Từ 2 cửa mở quân ta dũng mãnh ào lên chiếm cứ điểm. Trận đánh đồn Sảm Thông, chờ giờ G, Hoàng và Xuân lại trò chuyện về sự sống chết, lý tưởng chiến đấu, danh dự một con người. Rồi Hoàng kể cho Xuân nghe về làng Bích Tràng, bên dòng sông Thi của mình. Gần sáng, sau 2 tiếng nổ rung trời chuyển đất, quân ta xé toang cửa mở phía Tây- Nam và Đông- Bắc. Nhưng địch trên cao điểm vừa bắn pháo sáng, vừa bắn súng máy ra cửa mở như mưa rào. Ta phải ém quân. Sáng hẳn, pháo, cối, ĐKZ của ta đồng loạt nã đạn vào đồn giặc. Bọn giặc rút chạy về phía Tây- Nam. Hoàng đang nằm sát cao điểm, thấy chúng sắp chạy thoát, không sợ nguy hiểm, anh nhảy hẳn lên mặt đất, bắt tín hiệu vô tuyến, bỏ cả mật mã, gào vào bộ đàm, yêu cầu pháo bắn ngay về cửa Tây- Nam. Không thấy pháo ta bắn, nhìn lũ giặc sắp chạy thoát, Hoàng uất quá gào lên. Bỗng từ phía cửa Tây- Nam vang lên cả tràng tiếng nổ kéo dài như pháo cối ngày tết. Thì ra ta đã chuẩn bị bãi mìn Claymor chờ sẵn. Xác giặc kéo dài theo khe núi. Lòng khe máu đọng thành vũng lớn. Trận đánh cao điểm 1978, chờ giờ G, Hoàng lại đọc cho Công, Toàn, Miền, Minh nghe bài thơ "Cuộc chia ly màu đỏ" của Nguyễn Mỹ. Đang đọc thì cối giặc bắn làm ngắt quãng. Giặc dừng bắn, Hoàng lại đọc tiếp. Nửa đêm, 2 tiếng nổ, ánh chớp sáng rực cả cao điểm. Quân ta vẫn ém quân giữ chặt 2 cửa mở. Sáng hẳn, pháo ta bắt đầu nã vào cao điểm. Pháo dừng bắn, quân ta từ mũi đột phía Đông và phía Tây ào lên như gió cuốn. Nhưng cao điểm trống rỗng, không một bóng giặc. Bọn chúng hoảng sợ đã bỏ cao điểm tẩu thoát theo các đường hào rẻ quạt xuống chân núi từ lúc nào. Trận đánh đồn Tà Can, Hoàng và Xuân được Tiểu đoàn trưởng Tung cử theo Đại đội 2. Trên đường hành quân tiếp cận cứ điểm, B52 đánh bom tọa độ, nhiều chiến sĩ hy sinh. Nửa đêm, quân ta mới lên được lưng chừng núi. Được lệnh dừng lại đào hầm, Hoàng và Xuân đào chung một hầm. Song, vì trời quá mù, khó quan sát được cứ điểm địch, tiểu đoàn trưởng lệnh cho Hoàng lên tuyến ép, sát đồn giặc để quan sát hỏa lực địch được rõ hơn. Giờ G, sau 2 tiếng nổ lớn, ta mở được 2 cửa nhưng giặc ở Tà Can cảnh giác và ngoan cố, chúng lại có lợi thế độ cao nên chống trả quyết liệt. Quân ta vẫn ào lên 2 cửa mở. Những làn đạn AK, trung liên của ta ríu vào làn đạn súng máy và AR 15 của giặc, cùng với tiếng hô xung phong ầm vang núi rừng. Quân giặc vón lại ở từng khúc chiến hào, liền bị AK quét đổ hàng loạt. Khoảng nửa giờ, quân ta hoàn toàn làm chủ cứ điểm Tà Can. Trận đánh cứ điểm Nam Tra, vị trí cuối cùng bảo vệ Long Chẹng nên địch quyết giữ bằng mọi giá. Cả 5 mỏm núi Nam Tra đều được chúng bố trí hàng rào dây thép gai và hỏa lực dày đặc. Khi tiếp cận trận địa, sườn núi dốc, lại trơn trượt, quân ta phải bám vào cây, dò từng bước lên cao điểm. Giờ G, cả 5 mỏm Nam Tra đều bị bộc phá ta phá tung. Quân ta cũng đã ém sát hàng rào dây thép gai. Giặc trên đồn la hét, bắn pháo, cối như vãi đạn. Pháo ta cũng khai hỏa, dìm đầu địch. Ta ngừng thì pháo địch lại bắn. Cứ thế pháo qua, pháo lại. Gần trưa máy bay địch ào đến chi viện. Pháo cao xạ của ta từ Cánh đồng Chum và từ các đỉnh núi bên cạnh đồng loạt khai hỏa. Hai chiếc T28 của địch trúng đạn, bốc cháy như hai chiếc thuyền lửa. Rồi pháo, cối của ta giã một trận dài xuống Nam Tra. Vừa ngớt tiếng pháo, bộ binh từ các hướng đồng loạt xung phong lên cao điểm. Cùng đường, giặc nhảy khỏi chiến hào, liều lĩnh xả đạn AR 15 như mưa. Bất thần xe tăng T34 của ta xuất hiện, tấn công, áp đảo quân giặc. Đức hướng AK vào thẳng đám giặc nhưng chưa kịp bóp cò thì một loạt đạn AR 15 từ đâu quét ngang xối xả. Anh chỉ kịp thều thào gọi mẹ rồi tắt thở. Bình gầm lên đau đớn, tì khẩu B41 vào ụ đất trên bãi trống nhằm thẳng lũ giặc siết cò trả thù cho Đức. Bỗng Bình thấy đùi mình nhói buốt. Biết đã bị thương nhưng Bình vẫn mím môi nén đau nhìn đồng đội đang tràn lên, lá cờ Pa thét Lào phấp phới tung bay trên cả 5 ngọn núi Nam Tra.

Đọc xong tiểu thuyết, đọng lại nhiều nhất là chân dung người lính trẻ và sự khốc liệt của chiến tranh. Những người lính hồn nhiên, tinh nghịch, tếu táo, đúng với tuổi trẻ và chất lính, song cũng đầy trách nhiệm và sự kiêu hãnh. Đứng trên đỉnh Trường Sơn, Hoàng nghĩ: "Bây giờ ta đang đứng trên đỉnh Trường Sơn. Trường Sơn cao vời, Trường Sơn hiên ngang, Trường Sơn máu lửa, Trường Sơn huyền thoại. Ờ, Trường Sơn đang ở dưới bàn chân ta của tuổi trẻ lên đường ra trận, mà không có gì cản nổi khát vọng chiến đấu và chiến thắng". Họ làm sinh nhật tập thể tuổi 20 ở mặt trận bằng nồi chè lương khô nấu với hạt dẻ rừng; rồi cùng hát "Vì nhân dân quên mình", cùng hô vang: "Tuổi hai mươi trai tráng, dũng cảm và quyết thắng". Đón giao thừa 1972, bằng các bài ca "Tiến bước dưới quân kỳ", "Tình ca Tây Bắc", "Bài ca hy vọng", "Hương thầm", "Tình yêu bên dòng sông quan họ", "Hà Nội, niềm tin và hy vọng",  "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây"; chăm chú nghe thư chúc tết của Bác Tôn. Phú hí húi thơ về cái Tết đầu tiên ở chiến trường: Đồng đội quây quần bên đống lửa/ Bên chiếc đài bán dẫn/ Một vòm hang sáng rực trên cao/ Ngồi bên ta- những con người giản dị/ Như cây cỏ hiền lành, như đất đai bền chặt/ Ánh mắt và trái tim rạo rực/ Cùng đón mùa xuân giữa cánh đồng Chum.../ Sức sống mới sẽ đưa ta vào trận/ Đánh thắng quân thù cho mãi mãi mùa Xuân. Xây dựng hình ảnh người lính, nhà văn không chỉ miêu tả hành động chiến đấu quả cảm mà còn phản ánh đời sống tinh thần, tình cảm của những người lính trẻ lần đầu ra trận. Đó là nỗi nhớ quê hương, mái trường, gia đình, bạn bè; đó là tình đồng đội; tình quân dân với nhân dân Lào; đó là những khát vọng tình yêu tuổi trẻ, ham thích làm thơ, đọc thơ, ca hát... Tất cả những điều ấy đã làm nên gương mặt tinh thần những người lính trẻ trong chiến tranh cũng là sự khẳng định, chiến tranh không thể hủy diệt được tâm hồn, tình yêu của người lính.

Viết về chiến tranh, nhà văn Hoàng Thế Sinh không né tránh sự khốc liệt, tàn bạo của chiến tranh; không né tránh những hy sinh mất mát. Trên đường hành quân vào mặt trận, nhiều chiến sĩ đã hy sinh vì sốt rét; tiếp cận đồn Phu Tâng, qua rừng thông, địch bắn pháo chụp như mưa đá, vì không có hầm hào trú ẩn nên nhiều chiến sĩ bị trúng mảnh pháo vỡ đầu, cụt tay, xẻ vai, nát chân, toạc lưng, vỡ bụng. Tiểu đội trưởng Đán bị đạn pháo xé nát đầu và vai; liên lạc Quy bị mảnh đạn lạc rơi trúng đầu, hy sinh khi chưa vào trận chiến. Rồi cảnh nghĩa trang quân tình nguyện Việt Nam bị trúng bom. Thi hài các chiến sĩ đã được chôn cất lại bị bom địch giết thêm lần nữa. Các chiến sĩ tìm nhặt từng mảnh thi thể đồng đội vương vãi khắp nơi. Mấy chục thi hài mà chỉ còn được một túi ni lông xương đầu, xương tay, xương chân, xương sườn lẫn lộn. Mới chỉ qua 5 trận đánh, những người bạn thân thiết của Hoàng: Quy, Lập, Chước, Thắng, Đức lần lượt hy sinh; Hoàng, Bình cũng bị thương nặng. Chiến tranh không chỉ giết chết bao tuổi hai mươi đầy khát vọng, nó còn hủy diệt mọi sự sống. Cả rừng ban đang trổ hoa cũng bị bom đạn làm tan nát... Nhà văn cũng không né tránh nỗi đau xót của người lính khi chứng kiến sự hy sinh của đồng đội: "Hoàng không sao đứng dậy được, cứ bò quanh các gốc thông, hai bàn tay rờ rẫm lên thân thể đồng đội, bàn tay nóng bỏng máu tươi, nước mắt giàn giụa, ngực nghẹn ứ đau đớn, miệng mếu máo", "Hoàng hực lên, ngực như bị lưỡi lê đâm đau nhói; khi nhìn thấy anh Đán đầu và vai bị đạn pháo chém nát, máu nhuộm đỏ thân", "Hoàng bật khóc hu hu, nghẹn ngào: Qui ơi, Qui ơi, sao chết nhanh thế?". Đối mặt với sự khốc liệt của chiến tranh, đau đớn khi đồng đội ra đi, nhưng người lính không run sợ, hèn nhát, bỏ ngũ. Trong trận đánh Phu Tâng, nhìn đồng đội hy sinh, lòng căm thù khiến Bình bắn liên tiếp tới 9 quả B41, bắn tung chiến hào địch, bắn tung hầm địch, bắn tung hàng rào dây thép gai có bọn giặc chui lủi chạy trốn, mặc cho sức ép khiến tai anh rỉ máu. Trong trận đánh Tà Can, một mình Hoàng ôm chiếc máy vô tuyến nóng rẫy trong chiếc hầm nhỏ chật, ngay sát hàng rào dây thép gai. Bom, đạn nổ ngay trên đầu, cái chết cận kề. Ngó ra, thấy từ hầm tới bìa rừng chỉ bò mất chừng một phút. Một phút là thoát chết. Nhưng chợt lóe lên trong đầu Hoàng ý nghĩ: "Nếu trở về thì sao? Có dám nhìn thẳng vào đôi mắt đen thẳm của thủ trưởng Tung không? Có dám nhìn thẳng vào đôi mắt rực lửa của đồng đội không? Có dám nhìn thẳng vào đôi mắt trong sáng của Mây không? Không! Không thể như thế được. Không thể là thằng hèn. Không thể bỏ chạy. Danh dự một con người đâu phải chuyện thường”. Hoàng thì thầm gọi: “Mẹ ơi! Vĩnh biệt mẹ. Vĩnh biệt các bạn chiến đấu. Mây ơi! Vĩnh biệt Mây". Rồi Hoàng ngó hẳn đầu lên quan sát, ghi nhớ phương hướng và các loại hỏa lực của địch, phát tín hiệu liên lạc, báo cáo tình hình hỏa lực địch cho chỉ huy. Điện báo xong, Hoàng ôm chặt chiếc máy vô tuyến, lòng rộn nên niềm vui vì đã hoàn thành nhiệm vụ, đã giữ trọn danh dự một con người. Tay Hoàng bỗng sờ xuống trái lựu đạn, rờ lên khẩu AK, lóe lên trong đầu Hoàng ý nghĩ: Nếu bọn giặc tới, Hoàng sẽ đánh chúng bằng cả 2 băng đạn và 1 trái lựu đạn, còn 1 trái Hoàng sẽ dành cho mình.

Viết về cuộc chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam trên đất Lào, không thể không nhắc tới tình cảm Việt - Lào. Những người lính tình nguyện Việt Nam coi sự chiến đấu, hy sinh vì sự bình yên của đất nước Lào, vì hạnh phúc của người dân Lào như của chính mình. Nhân dân các bộ tộc Lào cũng thương yêu bộ đội Việt Nam như người ruột thịt. Mẹ Bun May ở bản Son, có chồng và con trai đều là bộ đội Pa thét đã hy sinh. Mẹ về ở với quân tình nguyện Việt Nam, chăm sóc, dạy tiếng Lào, dạy múa lăm vông cho bộ đội Việt Nam. Các mẹ Lào ở bản Ban, thân hình gầy guộc, tóc bạc, váy áo vá, vẫn ôm quả bí ngô to cho bộ đội Việt Nam. Bộ đội thương mẹ cũng nghèo, cũng đói, không nhận, thì mẹ bảo: "Các mẹ Lào thương quí bộ đội Việt Nam lắm. Các mẹ cũng như cũng như các mẹ bên Việt Nam thôi. Con cứ cầm quả bí đi, gọi là chút quà của mẹ thôi mà. Không cầm là mẹ tủi lắm". Cảnh, Thành bị lạc trong rừng, gặp 2 mẹ con người phụ nữ Lào, biết bộ đội Thành đói, chị lấy nắm cơm duy nhất trong gùi đưa cho, rỗi dẫn đường ra khỏi rừng. Minh bị cảm, mẹ Bun May lên rừng hái lá thuốc, em Bun La nấu cháo; Bí thư Chi đoàn Bua Xa Ly vừa đưa tay xoa ngực Minh vừa hát bài dân ca Lào "Ô đuông Chăm Pa". Bộ đội Việt Nam cùng các cô gái Lào nắm tay nhau nối thành vòng tròn vừa múa vừa hát. Bộ đội khắp cọi, tiếng khắp "Trong mát như nước máng lần chảy từ núi Ngàng về bản, như lửa cháy rừng rực bếp nhà sàn, lúc vi vút tiếng gió, khi rì rào lá reo, lúc ào ào thác đổ, khi lác đác mưa rơi, như có tiếng chim sơn ca ríu rít ban mai", hòa cùng tiếng hát dân ca Lào ngọt ngào, êm ái, lời hát như có nắng sớm mai, như chim hót, như gió thoảng lá rừng, như có hoa nở, hương thơm… Những chi tiết này vừa thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của nhân dân Lào với quân tình nguyện Việt Nam, vừa thể hiện 2 dân tộc Việt- Lào rất gần gũi về đời sống văn hóa. Đó chính là nền tảng của tình hữu nghị Việt- Lào đời đời bền vững, mãi mãi xanh tươi.

 Trong "Cánh đồng Chum mùa hoa ban", có nhiều trường đoạn giàu chất trữ tình. Đoạn Hoàng nhớ về làng Bích Tràng của mình: “Nhà Hoàng ở ngay bến sông Thi, nơi có ngôi Chùa Cỏ…nơi in dấu vết cái bến đò ngang còn xôn xao sóng nước”.  Đoạn tả đêm trăng rừng Lào: "Bầu trời cao thăm thẳm. Mặt trăng còn hơi khuyết nhưng sáng trong, cứ bay bay giữa muôn vì sao lấp lánh...". Đoạn hồi tưởng của Hoàng về đêm mùa xuân Phố Ràng: "Đêm mùa Xuân trong sáng, bầu trời cao thăm thẳm, vầng trăng như chiếc đĩa bạc khổng lồ... Mây rủ Hoàng lên đồi Ban. Mùa xuân hoa Ban nở trắng sườn đồi. Mây bảo ngắm hoa Ban qua ánh trăng mới thấy hoa Ban lung linh chẳng kém gì những vì sao trên trời". Đoạn miêu tả cảm xúc của Hoàng khi nhìn rừng Ban bị tàn phá: "Ôi! Cánh rừng Ban mênh mông trắng ngần! Hoàng ngơ ngẩn nhìn một nửa rừng Ban bị pháo bắn tan nát cây cành. Những chiếc lá hình trái tim rách tướp, những chiếc lá hình trái tim cháy quăn đen nhẻm... Những cánh hoa Ban màu hồng nhạt bị chém tơi tả khắp mặt đất như máu ứa. Ôm chặt khẩu AK, lặng đi hồi lâu, Hoàng lẩm nhẩm: Ôi chiến tranh, người là con quỷ dữ. Ngươi đã giết chết những người bạn của ta tràn trề nhựa sống đương hai mươi tuổi. Ngươi đã giết chết những ước mơ cao đẹp của bạn ta đương hai mươi tuổi. Ngươi đã giết chết những cây Ban có chiếc lá hình trái tim như trái tim bạn ta đương hai mươi tuổi. Ngươi đã giết chết những bông hoa Ban trắng ngần như tình yêu của bạn ta đương hai mươi tuổi. Nhưng không phải thế đâu, hỡi con quỷ chiến tranh! Hy sinh vì nghĩa lớn bạn ta mãi mãi trẻ trung cùng đất nước. Cây Ban lại mọc lên xanh biếc lá hình trái tim. Hoa Ban lại nở trắng ngần giữa mùa xuân bình yên". Suy nghĩ ấy của Hoàng chính là tuyên ngôn của những người lính về chiến tranh và khát vọng hòa bình.

Cuối cùng, điều tôi muốn nói: Viết về cánh đồng Chum trong chiến tranh nhưng tác giả lại đặt tên tác phẩm gắn với hoa Ban, loài hoa dân dã nhưng có sức sống mãnh liệt. Điều ấy thể hiện ý tưởng: sự khốc liệt của chiến tranh không thể giết chết cảm xúc, tình yêu, cái đẹp và sự lãng mạn. Đó cũng là một nguồn sức mạnh của người lính, chiến thắng mọi kẻ thù. Trong truyện ngắn "Mảnh trăng cuối rừng", nhà văn Nguyễn Minh Châu gọi đó là "sợi chỉ xanh óng ánh", bom đạn, thời gian không thể làm đứt nổi. Tôi nghĩ, đó cũng là một điểm nhấn của chủ đề tiểu thuyết "Cánh đồng Chum mùa hoa Ban".

                                                                 

                                                                                                     N.H.L

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter