Vai trò của báo chí truyền thông đối với hoạt động phê bình văn học ngày nay

Trần Thị Hồng Hoa

Truyền thông (medium/media), theo định nghĩa của Wilbur Schramm, là công cụ đặt vào giữa quá trình, hoạt động giao tiếp nhằm khuếch đại và kéo dài việc đưa tin trong không gian và thời gian. Bộ phận hạt nhân của truyền thông là truyền hình, phát thanh, điện ảnh, báo chí trung ương, có độ phủ sóng toàn xã hội; bộ phận ngoại biên như các phương tiện sách, báo, tạp chí in, báo điện tử… được phủ sóng trong một phạm vi có chọn lọc hơn; bộ phận văn hóa đô thị như họp báo, giới thiệu sách mới thường chỉ có tại đô thị lớn... Truyền thông trở thành một công cụ quyền lực, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tiếp nhận và phê bình văn học.

Phê bình văn học với tư cách một khoa học về văn chương bắt đầu từ thế kỉ XVIII, phát triển mạnh mẽ trong thế kỉ XX, từ Tây phương đã nhanh chóng lan rộng khắp toàn cầu. Tương ứng với các hình thái và giai đoạn phát triển của văn học, phê bình văn học cũng có những trường phái, trào lưu riêng và trải qua những mốc phát triển đáng chú ý.

Có thể nói, thế kỉ XX đã chứng kiến sự ra đời của một loạt trào lưu và khuynh hướng phê bình từ phương Tây như: phê bình marxist, chủ nghĩa hình thức, phê bình Mới, phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, giải cấu trúc, chủ nghĩa tân lịch sử, thi pháp học, phong cách học, diễn ngôn học, tu từ học… Các khuynh hướng này cạnh tranh, bổ sung nhau, cung cấp nền tảng lí luận phong phú cho việc tiếp cận các hiện tượng văn học, khắc phục dần các nhận thức ấu trĩ, giáo điều.

Tại Việt Nam, tiếp nối các khuynh hướng phê bình tiêu biểu trước đây như phê bình xã hội học marxist, phê bình thi pháp học, phê bình văn hóa học, phê bình sinh thái..., đã xuất hiện một hình thái phê bình mới là phê bình truyền thông: kết hợp hiệu quả giữa văn học và báo chí truyền thông, mang lại sức sống mới cho nền văn nghệ đất nước.

Báo chí truyền thông đã thể hiện ảnh hưởng mạnh mẽ tới phê bình văn học thông qua các hình thức khác nhau: giới thiệu sách hay, điểm sách mới, tọa đàm, giao lưu giữa tác giả và độc giả, lồng ghép tổ chức sự kiện… Đặc biệt, sự phát triển của mạng xã hội đã góp phần đại chúng hoá hoạt động phê bình văn học, giúp cho nhiều cá nhân tự tin và có cơ hội thể hiện quan điểm của mình hơn. Với chức năng đưa tin, tạo các diễn đàn, định hướng dư luận, đánh giá chung, bày tỏ quan điểm, chính kiến..., tính chất thông tấn nhanh nhạy của các loại hình báo chí đã tạo ra môi trường phê bình rộng rãi, tăng cường tính dân chủ cho các hoạt động phê bình văn học.

Trên các kênh truyền hình chính thống, chuyên mục giới thiệu, phê bình sách, điểm sách hay trong và ngoài nước đã trở thành một món ăn tinh thần bổ ích và thường xuyên đối với người xem. Chương trình Mỗi ngày một cuốn sách trên VTV1 mang đến cho độc giả những cuốn sách chất lượng, do những nhà xuất bản hàng đầu phát hành, với đa phần là đầu sách văn học. Chuyên mục này cũng mở riêng trang web moingay1cuonsach.com.vn để tạo thêm một kênh quảng bá, giới thiệu sách hay đến bạn đọc. Tạp chí Văn nghệ online của Đài Tiếng nói Việt Nam với nhiều chuyên mục phong phú, góp thêm một địa chỉ cho phê bình văn học trên các phương tiện báo đài. Các trang báo điện tử uy tín như VnExpress, Dân trí... luôn cập nhật thông tin về tình hình văn học trong và ngoài nước, giới thiệu những cuốn sách mới ra mắt một cách nhanh nhất, tăng cường những diễn đàn trao đổi, tranh luận cho các nhà phê bình, xoay quanh những hiện tượng văn học cũ và mới trong và ngoài nước (trên VnExpress còn dành riêng một mục đặt tên là E-văn cho văn học nghệ thuật). Tạp chí chuyên ngành xuất hiện ngày càng nhiều, trở thành địa chỉ quen thuộc để giới nghiên cứu công bố các công trình của mình. Bên cạnh các ấn phẩm giấy, hầu hết các tạp chí đều mở thêm tạp chí online, lập website để đáp ứng kịp thời yêu cầu của thời đại công nghệ (Tạp chí Văn nghệ Quân đội có trang vannghequandoi.com.vn, Tạp chí Sông Hương có trang tapchisonghuong.com.vn, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật có trang vhnt.org.vn, Tạp chí Văn học và tuổi trẻ có trang vanhoctuoitre.com.vn...)

Không gian phê bình đã mở rộng các đường biên; quan niệm về chức năng, vị trí của phê bình cũng dần thay đổi. Từ chỗ chỉ dành cho những người có học hàm, học vị, có tiếng nói trong nghiên cứu, nay phê bình văn học đã chuyển hướng về gần hơn đông đảo độc giả. Sự trợ lực của truyền thông góp phần đại chúng hoá các hoạt động phê bình văn học, giúp cho nhiều cá nhân tự tin và có cơ hội thể hiện quan điểm của mình hơn so với trước đây. Ví dụ như chương trình Cuốn sách của tôi đang được phát sóng trên VTV7, có thời lượng 15 phút mỗi số, do Trung tâm Sản xuất các chương trình giáo dục, Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện. Điểm đặc biệt là những cuốn sách truyền cảm hứng sẽ được lựa chọn và giới thiệu bởi độc giả. Mỗi người đọc sẽ nói về ảnh hưởng của cuốn sách đối với họ, lí do họ yêu thích cuốn sách và những gì được chuyển tải trong sách đã giúp họ thay đổi cuộc sống của mình như thế nào... Trên nhiều tạp chí online hay ấn phẩm giấy, chuyên mục Ý kiến bạn đọc được quan tâm thực hiện, là nơi để bạn đọc bình dân đưa ra quan điểm, nhận xét cá nhân về các hiện tượng văn học, các tác phẩm văn học mà họ quan tâm. Không chỉ thế, các trang mạng xã hội như blog, facebook, zalo... cũng có thể trở thành diễn đàn để các cá nhân tự do phát ngôn và khoác lên mình vỏ bọc của những nhà “phê bình tự phong”. Chưa bao giờ, phê bình văn học lại rôm rả và có nhiều “đất” như ngày nay. Báo chí và truyền thông đã tạo nên bệ phóng cho các hoạt động phê bình văn học ngày càng phát triển rực rỡ, là đòn bẩy để các lĩnh vực văn hoá tư tưởng của xã hội được khai phóng và mở rộng không ngừng.

Nhưng bên cạnh những ưu thế về tốc độ và sự lan toả, phê bình truyền thông vẫn còn vấp phải những hạn chế chưa khắc phục được. Để bước vào thế giới của tác phẩm, người đọc nói chung, người làm hoạt động phê bình nói riêng càng không thể vội vàng hay hời hợt. Người làm phê bình cần phải có sự nghiền ngẫm để cảm nhận thông điệp mà tác phẩm đưa ra, cần thời gian để thẩm thấu và phân định các giá trị, cần năng lực để có thể phân tích và chỉ ra những điểm hay dở của tác phẩm. Nhưng tất cả những điều đó dường như chưa được thực hiện trọn vẹn bởi sự tham gia ồ ạt, không chọn lọc của truyền thông. Nhiều tác phẩm được truyền thông tâng bốc, tung hô quá đà lại chưa hẳn là những tác phẩm chất lượng (ví dụ trường hợp các tác phẩm được báo chí quảng bá như hồi kí Một đời giông bão của diễn viên Thương Tín, tự truyện Phút 89 của cầu thủ Lê Công Vinh... khi ra mắt đã bị dư luận phản ứng mạnh mẽ vì những sự thật trần trụi được phơi bày trong các tác phẩm này). Hiện tượng “đọc xổi”, “phê bình ảo”, nhập nhèm giữa các giá trị, sự thực dụng của một bộ phận báo giới... khiến cho hoạt động phê bình văn học không còn giữ được sự trang trọng, tính học thuật và sự nghiêm cẩn như trước.

Bên cạnh đó, ngôn ngữ của truyền thông đại chúng chủ yếu là ngôn ngữ chính trị, ngôn ngữ thương mại, ngôn ngữ đời thường, chưa có nhiều điều kiện để gọt giũa về ngôn ngữ chuyên môn. Nhiều bài phê bình sử dụng thứ ngôn ngữ còn non kém, ngô nghê về mặt học thuật, chưa kể những sai sót cơ bản về chính tả, từ ngữ, ngữ pháp, diễn đạt... Ngoài ra, sự thịnh hành của phê bình trên mạng và các blog cá nhân dù làm gia tăng tính đối thoại nhưng lại dễ sa vào áp đặt, quảng cáo, mưu cầu lợi ích kinh tế, rất dễ bị công chúng quay lưng. Chưa kể không gian ảo của báo mạng còn khiến cho một số ý kiến phát ngôn ẩn danh dễ đi vào suy diễn, lời lẽ thiếu tôn trọng đối tượng phê bình, ảnh hưởng đến chất lượng phê bình.

Như vậy, phê bình văn học có tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học, xác lập nền tảng lí luận cho sáng tác, thúc đẩy nhà văn tích cực tạo ra những sản phẩm nghệ thuật mới theo hệ thống quan điểm xã hội - thẩm mĩ do nó thiết lập. Hoà trong xu thế phát triển của các khuynh hướng phê bình hiện đại, phê bình truyền thông là sự kết hợp giữa văn học và báo chí, mang lại cho văn học những cơ hội mới để chuyển mình nhưng đồng thời cũng có những thử thách không dễ vượt qua. Điều này đặt ra yêu cầu có tính cấp thiết đối với việc tạo lập và duy trì một môi trường truyền thông có văn hoá, có chiều sâu, tạo đà cho phê bình văn học phát triển hơn.

T.T.H.H

Theo nguồn: Văn nghệ Quân đội

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 66<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter