Chúa đất miền Khau Sưa- Những điều muốn nói

Vũ Nho

(Đọc Chúa đất miền Khau Sưa, Tiểu thuyết của Hoàng Thế Sinh, Nxb Quân đội nhân dân, 2020)

 

Nhà văn cựu chiến binh Hoàng Thế Sinh quê gốc Hưng Yên, lập nghiệp và thành danh ở Yên Bái là một cây bút đa năng. Anh từng viết và in thơ, bút ký, truyện ngắn, truyện ngắn hài, tiểu thuyết. Và bây giờ là một tiểu thuyết mới có nhan đề rất gợi “Chúa đất miền Khau Sưa”. Nhan đề cứ tưởng là một truyện Cổ tích hay truyện Lịch sử, vì bây giờ làm gì còn “chúa đất” trong thế kỉ 21! Thật ra từ “Chủ” cũng còn một cách đọc khác là “Chúa” khi người ta muốn đọc “Chủ” hay “Chúa” đều được trong từ “Chúa nhật” hoặc “Chủ nhật”. Chúa đất có thể hiểu là ông chủ đất, nhưng cũng là ông “Chúa đất” của vùng Khau Sưa. Đó là nhân vật chính, nhân vật xuyên suốt tiểu thuyết có tục danh là Vũ Tử Pín, còn gọi là cậu Tử Pín. Vì cậu có người chị gái quyền lực, phu nhân của anh rể Vương oai danh trùm lên miền Khau Sưa và thành phố Mã Sơn. Có lẽ tác giả muốn sử dụng chi tiết trong giấc mơ làm Vua của nhân vật ở trang 207, khi làm vua không ổn, làm quan thì không thích, quản gia Miêu đã gợi ý chỉ nên làm Chúa. Tử Pín hỏi Chúa gì? Miêu thưa rằng Chúa đất! Nhân vật hoàn toàn thỏa mãn với danh xưng này.

Bìa cuốn tiểu thuyết "Chúa đất miền Khau Sưa" của nhà văn Hoàng Thế Sinh

 

Tử Pín vốn là một người nhanh nhạy trong làm ăn, lại có chị gái là vợ của anh rể Vương, một ông lớn trùm lên mọi ông lớn, mọi đại gia vùng Khau Sưa và thành phố Mã Sơn hỗ trợ nên anh ta phất lên rất nhanh. Mua rẻ đất của dân với giá cao gấp mười lần nhà nước bằng thủ đoạn vừa dọa đất phố “Liều” không có sổ đỏ có thể bị mất không, vừa nâng giá mua. Có một số nhà dân gốc xóm Giếng không chịu đi. Tử Pín thuê côn đồ dọa giết và ném tiền lên bàn ép kí bán đất. Chỉ từ sáng tới trưa là xong mọi thủ tục mua bán đất viết tay có dấu phường xác nhận. Thế là anh ta trúng quả đậm hàng ngàn mét vuông. Khi dự án mở đường qua khu đất đó, anh ta được lợi gấp trăm lần vốn bỏ ra.

Tử Pín là hình mẫu của loại đại gia mới. Phía trên cao nhất thì có anh rể Vương cùng chị gái ngầm hủng hộ. Thấp hơn thì có Bí thư Sò và Chủ tịch Lỉn của vùng Khau Sưa hết lòng giúp đỡ. Vì vậy mà việc gì khó mấy rồi cũng xong. Tử Pín thuê vệ sĩ, thuê quản gia. Việc gì anh ta cũng dùng tiền để giải quyết. Tham vọng của anh ta là làm ra nhất nhiều tiền, cực kì nhiều tiền để tiền đẻ ra tiền. Rồi lấy tiền để giải quyết mọi việc. Tử Pín nói với người Rừng:

Người có quyền thì dùng quyền, người có tài thì dùng tài, người có sức thì dùng sức, người có mưu thì dùng mưu, người có tiền thì dùng tiền, chuyện thường”  (trang157).

Tử Pín dùng tiền để xây dinh thự nguy nga. “Dinh cậu Tử Pín hoành tráng và lộng lẫy hơn cả dinh của đại gia ở thành phố, chứ đùa. Dinh cậu Tử Pín cũng chẳng kém gì các lâu đài cổ phương Tây” ( tr.75).

Tử Pín dùng tiền để mua đất đai làm thủy điện, mua đất đai làm khu nghỉ dưỡng, mua núi Chúa để làm du lịch sinh thái. Những ai cản trở công việc làm ăn thì dùng tiền mua, như đã mua Bí thư Sò và Chủ tịch Lỉn. Không mua được thì thuê đầu gấu đánh dằn mặt như với Trưởng bản Tềnh, như với ông Sa Thổ…

Tác giả mô tả Tử Pín như là một Chúa đất miền Khau Sưa, muốn gì được nấy, không ai có thể cản trở. Nhưng Tử Pín chậm chân so với hai vị Bí thư Sò và Chủ tịch Lỉn: “Rừng Khau Sưa, đá quý Khau Sưa, đá bloc Khau Sưa, người ta chiếm cả rồi, người ta ăn hết cả rồi, người ta biến thành tiền, vàng, đô la hết cả rồi, ta làm gì đây” ( tr.162).

Tử Pín luôn mồm nói là anh ta làm việc vì dân. Dân giàu lên thì anh ta cũng giàu lên. Các cuộc họp, dân đều được nghe những lời hứa tốt đẹp. Và quả thật anh ta cũng làm được một số việc khiến dân tin. Nhưng chỉ khi thủy điện Hoang Thủy bị nước lũ đe dọa thì con người thật của anh ta mới phơi bày. Mỉa mai thay, cậu Tử Pín ngồi trên bia kỉ niệm có dòng chữ “Thủy lợi- Thủy điện Hoang Thủy vì sự phồn vinh của nhân dân Cò Nòi, nhân dân Nà Lai!”, nhưng ra lệnh xả lũ. “Cánh đồng Cò Nòi và Nà Lai ngập mênh mông, bản Cò Nòi và bản Nà Lai chìm nghỉm trong mênh mông biển nước. Mặc xác dân Cò Nòi! Mặc xác dân Nà Lai! Bản làng đồng ruộng là của các ngươi. Thủy điện Hoang Thủy là của ta. Của ai người nấy giữ. Không biết giữ cái của mình thì cho chết, ai thương chứ!” (trang 178). Hậu quả của việc xả lũ là năm người chết và hai người mất tích. Trưởng bản Tềnh thì treo cổ tự tử vì đã vận động dân cho Tử Pín làm thủy điện.

Không việc gì là Tử Pín không dám làm. Để cho việc giải phóng mặt bằng xây khu vui chơi giải trí Cò Lả, Tử Pín thuê đầu gấu chiêu tập bọn bốc mả chuyên nghiệp. Trong một đêm bốc hơn một trăm ngôi mộ về nghĩa địa mới. Vì vội quá nên quên không rõ mộ nào với một nào, bị dân làng phản đối. Dân ném cứt thối vào dinh. Một lần nữa, doanh nhân thời 4.0 Tử Pín lộ rõ là một người tàn ác khi tuyên bố “ Dân đông cũng mặc! Tôi cho dân Cò Lả về mo ráo, biến dân Cò Lả thành zêrô tuốt! Xem dân làm gì được tôi nào?” (trang 227). Đối thoại với những khúc xương trắng đòi nhà trong giấc mơ, Tử Pín quát:Chết rồi cũng giết, giết hết”. Những khúc xương trắng khào khào: “Ông là con người mà sao ông tàn ác hơn cả ma quỷ thế” (trang 257).

Chi tiết thú vị là một lần Tử Pín ốm gần chết khi san lấp đất phố Liều, được thầy cúng Khổng Xích Tồ cho uống nước hòa đất nướng, đã tỉnh lại. Lần này Tử Pín chủ động lấy đất ở Cò Lả về đưa quản gia Miêu. “Cậu chủ cầm bát nước đất đỏ lừ, nhấp nhấp như kiểu nhấp nước trà, rồi tu một hơi cạn. Khà! “Đất ngọt lịm!”. Tử Pín chẹp miệng, khen, ngửa cổ lắc lư cái đầu vẻ khoan khoái” (trang 213). Chúa đất, uống đất, ăn đất ngon lành. Quả là một chi tiết tượng trưng đắt giá.

Hai nhân vật cựu chiến binh là ông Mùi và ông Sa Thổ là người có uy tín và liên quan đến Tử Pín với tư cách đối trọng. Ông Mùi bị mất tượng phật đồng đen liên quan đến bố của sếp Vương, anh rể Tử Pín. Tượng phật ấy lại cùng với thằng By lai về nhà Tử Pín, trên điện thờ nhà Tử Pín. Câu chuyện làm cho người đọc phải hồi hộp theo dõi liệu ông Mùi, có thằng cháu Gâu bị ảnh hưởng của chất độc da cam có lấy lại được bức tượng không, ông đánh bẫy chim phục vụ cho sếp Vương, cho Tử Pín đến bao giờ?

Ông Sa Thổ chỉ là một trưởng thôn, nhưng “cứng cổ” không nghe Bí thư Sò và Chủ tịch Lỉn. Ông đã bắn cảnh cáo Tử Pín, nhưng lại ơn Tử Pín vì Tử Pín bao cho  Sương, con gái ông đi học. Ông quyết không nhận năm chục triệu Tử Pín mua mình, bị Tử Pín thuê đầu gấu đánh gần chết. Tuy vậy, khi Tử Pín bị bệnh tâm thần, ông bỏ qua tất cả, cùng với cô Sao và thầy cúng Khổng Xích Tồ chữa cho Tử Pín. Khi Tử Pín nói đến trả ơn, ông trả lời bằng một câu tục ngữ người Tày “Có tiền mua được thóc giống. Nhưng có tiền đâu mua được người già”. Đây cũng là một nhắn nhủ chân thành cho con người có rất nhiều tiền, từng nghĩ rằng có tiền là có tất cả. Nhân vật ông Sa Thổ là con người yêu rừng núi, gắn bó với rừng núi, cân nhắc điều hơn lẽ thiệt khi phải đứng trước vấn đề bán rừng để làm giàu ngay, hay giữ rừng để cuộc sống yên lành mãi mãi.

Một nhân vật phụ cũng đáng được nhắc đến là anh Lỳ kiểm lâm cũng là trùm săn, người yêu của Sương. Lỳ đã hai lần định ám sát Tử Pín vì chuyện người yêu. Nhưng một lần bầy nai phá hỏng. Còn lần sau thì thằng bé By lai xuất hiện khiến tay nỏ của Lỳ run.

Nếu có gì đáng nói về nhược điểm của tiểu thuyết này thì chính là ngôn ngữ kể chuyện của tác giả dù trau chuốt và hấp dẫn, nhưng chiếm quá nhiều, làm cho mạch truyện phát triển chậm. Những đoạn văn miêu tả thiên nhiên rất thơ mộng, rất đẹp nhưng cũng có chỗ hơi bị “tả cành tả cảnh”. Và cái việc lấy lại tượng Phật của ông Mùi đã qua đỉnh gay cấn khi ông Mùi cùng Neo đi ăn giỗ (trang 200) lại được nói lại ở trang 244, và được cô Mê lấy trộm một cách nhẹ nhàng…

Dù sao, đây là một tiểu thuyết thành công. Hoàng Thế Sinh đã huy động một vốn sống phong phú về cảnh vật, con người miền núi trong tiểu thuyết này. Tác giả đã xây dựng thành công một kiểu nhân vật mới, nhân vật đại gia câu kết với thế lực chính quyền địa phương để trở thành “chúa đất” của một vùng. Và tác giả khá cao tay khi để cho nhân vật Tử Pín thành người tâm thần “chẳng còn uy, chẳng còn oai, chẳng còn ai nể sợ nữa, cũng chẳng còn ai thù ghét cái người điên dại, thì cần gì phải bảo vệ cơ chứ. Cậu thành người vô hại, cứ mặc thôi” (trang 269).

Đó là cái kết xứng đáng dành cho “chúa đất”.

                                                                        V.N

 

 

 

 

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 66<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter