Nhà thơ VŨ QUẦN PHƯƠNG
Tính từ mùa xuân năm 1947, khi quân dân Thủ đô ta tạm rời Hà Nội, cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng, lên Việt Bắc trường kỳ kháng chiến cho đến ngày ta thắng ở Điện Biên rồi về lại Thủ đô, tính năm là 7. Còn từ giải phóng Điện Biên đến nay đã gấp 10 lần con số đó, 70 năm. Trong ký ức một đời người đã là xa xôi lắm. Nhưng sao dư âm của những ngày tháng ấy như vẫn ngân nga trong tâm hồn chúng ta, những người tóc bạc ngồi đây, và cả những người tóc xanh, vốn không có ký ức riêng về năm tháng ấy. Chúng ta nhớ lại cả cái hồn vía tạo vật bùng mở theo mùa xuân rừng tươi tắn tiến về xuôi. Xin các bạn nghe lại trong lòng mình giai điệu Đỗ Nhuận, giai điệu của nhạc chứ không phải của nghĩa chữ trong ca từ: “Giải phóng Điện Biên bộ đội ta tiến quân trở về giữa mùa đầy hoa nở, miền Tây Bắc tưng bừng vui”. Tâm hồn Đỗ Nhuận đã đánh dấu vào chặng lịch sử ấy, gợi ra hình ảnh, gợi ra hồn vía không gian, hồn vía của chính ta trong ngày tháng ấy, khi lần đầu nghe bản nhạc ấy. Nhạc sĩ Đỗ Nhuận có một đóng góp kỳ lạ là ông góp phần quan trọng tạo nên phong vị tâm hồn rất đặc trưng cho cuộc kháng chiến chống Pháp, mà Giải phóng Điện Biên và Du kích sông Thao (trước đó) là những ví dụ đầy thuyết phục. Mọi người Việt, dù không có kiến thức gì về nhạc, như tôi, cũng nhập được vào hương và vị của không gian lịch sử một đi không trở lại ấy.
Một bài hát khác cũng đã đánh dấu Điện Biên vào tâm hồn dân ta là Hò kéo pháo. Nhạc sĩ Hoàng Vân khi ấy còn ở tuổi thanh niên, tiếng hò kéo pháo cao xạ lên trận địa núi rừng thì chưa hề có trong lịch sử chiến tranh của cha ông ta. Giai điệu trầm hùng bi tráng của những người cứu nước, kéo vũ khí lên trận địa thành một tư liệu tâm hồn góp phần vào lưu giữ chứng cứ xúc động cho lịch sử. Trong Hò kéo pháo, bằng sức nghe bản năng homo sapien, tôi đã nhận ra được tiếng âm vang của vực sâu núi cao dội trong tiếng hò người đánh giặc. Tôi thú nhận tôi đã từng tìm cảm hứng để làm thơ về chiến thắng Điện Biên, làm thơ về kháng chiến chống Pháp từ âm nhạc của các bậc tiền bối ấy. Điện Biên đã đánh dấu vào tôi qua những tâm hồn ấy.
Tôi cũng nhận ra, để lưu giữ ký ức thì văn báo chí như ghi chép, như phóng sự có sức lưu giữ được chi tiết sống động, cụ thể hơn nhưng lại chỉ ở cấp độ thân xác sự kiện. Còn để lưu được cả hồn vía của sự kiện thì phải dùng đến văn chương là thơ và truyện, nhất là thơ. Còn cao hơn cả thơ, nghĩa là không cần đến tác động của nghĩa chữ ấy là âm nhạc. Người nghe cảm nhận nhạc bằng trực giác, bằng bản năng. Không cần phiên dịch và hãy khoan giải thích, bình luận. Hãy cứ “Dừng hơi thở lại xem trong ấy/ Hiển hiện hoa và phảng phất hương” (Xuân Diệu). Tôi đã mượn âm nhạc làm phần đầu bản tiểu luận này để nói sức phản ánh, lưu giữ hiện thực thần kỳ và bí ẩn của nghệ thuật. Điều tôi muốn nói kỹ hơn ở đây là sự nhập cuộc của THƠ trong sự nghiệp cứu nước ở trận đánh 56 ngày đêm sinh tử Điện Biên, năm 1954.
Kể từ năm 1858, khi người Pháp dùng thủy quân tiến đánh Đà Nẵng, thì lịch sử nước ta là lịch sử cứu nước, lịch sử chống xâm lăng. Nhưng đau đớn thay mọi cuộc nổi dậy đều bị dìm trong máu. Tư tưởng chiến lược của những phong trào yêu nước chưa vượt qua được tư tưởng xuất phát từ ngưỡng văn minh công nghiệp của kẻ xâm lược. Phải đến năm 1930, những người yêu nước mới tìm được chủ thuyết đấu tranh mới, kết tinh trên nền sản xuất công nghiệp tiên tiến của nhân loại, chủ trương chiến tranh nhân dân và chiến đấu toàn diện để tiến hành cứu nước. Chỉ công thức ấy mới tạo được động lực đánh bại ý chí xâm lược của những ngoại bang hung hãn nhất. Tôi nói hơi xa với chủ đề để thấy, thấy từ xa: chính từ tính chất toàn dân, toàn diện của cuộc chiến cứu nước đã tạo tiền đề cho người văn chương nghệ thuật đồng hành mật thiết với người đánh giặc ở chiến trường. Chuẩn bị lệ bộ cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, bản Đề cương văn hóa 1943 của Đảng Cộng sản đã vạch rõ phương châm hoạt động của nền văn hóa mới, giúp giới nghệ thuật tìm đường, nhận đường, chủ động đóng góp phần mình vào cuộc chiến. Góp phần trong sự hình thành ý chí lẫn tình cảm, lý tưởng lẫn hành động của người ra trận mà Điện Biên là một kết tinh cao độ nhất, tính đến thời điểm ấy.
Tố Hữu, nhà thơ tài năng, mà trong tập thơ đầu tay của ông, phía dưới những bài thơ thuở 19, 20, 21 tuổi, ở dòng ghi nơi sáng tác lại là tên những nhà tù: Thừa Thiên, Lao Bảo, Ban Mê Thuột… hay tên những xà lim: Xà lim số 1, Xà lim Quy Nhơn, và ở khá nhiều bài còn chua thêm Trong những ngày tuyệt thực. Những năm kháng chiến chống Pháp, thơ ông được coi như ngọn cờ đầu của nền thơ cách mạng. Nền thơ ấy đã tập hợp hầu hết những tài năng kiệt xuất của phong trào Thơ Mới trên thi đàn công khai trước đó. Thơ mừng chiến thắng Điện Biên của Tố Hữu xuất hiện khá sớm, có khi ông viết ngay trong đêm nhận tin chiến thắng. Thơ đã bắt đầu ngay bằng chính không gian ấy:
Tin về nửa đêm
Hỏa tốc hỏa tốc
Ngựa bay lên dốc
Đuốc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đỏ đèn đỏ lửa
Không gian này, theo cảm thụ của tôi, là một không gian hư cấu xuất phát từ tâm hồn tác giả hơn là dựa trên những chi tiết đời sống ở cơ quan và ở trong làng xóm ATK Việt Bắc. Phần hư cấu chính là chỗ ông tập trung các chi tiết lại thành một cao trào có hơi hướng cổ điển, truyền thống, mang khí vị xa xưa, dân dã. Đọc mà ngỡ như đang đón tin “báo tiệp" từ thuở thắng Nguyên, bình Ngô, có nửa đêm hỏa tốc, có ngựa phi lên dốc như bay, có đỏ đèn đỏ lửa, có loa loa loa loa trong làng trên xóm dưới. Nhịp câu ngắn, điệu thơ nhanh. Không khí cổ xưa đến nỗi tiếng chuông điện thoại cũng bị hiểu là tiếng chuông đình chuông chùa gióng lên chào đón tin vui và cái không gian nửa đêm lại làm tôi nhập vào không gian Chinh phụ ngâm, nửa đêm truyền hịch thuở nào. Sau đoạn mở đầu rất gợi không khí ấy, bài thơ nghiêng về bút pháp chính luận với những sự kiện của năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, mở hầm, mưa dầm, cơm vắt và những sự tích chiến đấu, hoặc phục vụ chiến đấu của quân và dân ta. Tác giả sử dụng linh hoạt bút pháp tự sự, bình luận và trữ tình trong một hơi cảm xúc nhất quán từ đầu đến cuối, khá tài tình. Bài thơ dài, tới 97 câu, nhưng đọc vẫn thoáng, nhờ một, chỉ một, cấu tứ giản dị: “hoan hô”… mà tác giả đã bộc lộ ngay bằng tên bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Cả bài thơ là một chuỗi hoan hô. Nhà thơ có ý nén mình lại, nhường chỗ cho cảm xúc phổ cập của toàn dân được bộc lộ thả cương thả cửa. Đôi lúc ông ý tứ xen những câu miêu tả tài hoa, tạo những nhịp nghỉ thư giãn trữ tình cho người đọc: Ấy là hình ảnh lộng lẫy của Điện Biên chiến thắng sáng rực như tấm huân chương khổng lồ trên lồng ngực của non sông đất nước:
Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!
Ấy là khi nhắc đến những địa danh lập công của chiến trường, giọng thơ hồn nhiên tự nhiên mà lại như đang dâng hai tay lên Tổ quốc, bó hoa chiến thắng màu sắc tưng bừng xanh, hồng, lam, trắng, da cam, vàng trong hơi thơ lục bát thân gần như câu ru nghe tự tuổi nằm nôi:
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng
Bài thơ Giá từng thước đất là sáng tác của nhà thơ quân đội Chính Hữu, Chính Hữu được sống với thực tế chiến trường. Thơ nảy sinh từ hiện thực, có thể coi như một thông tin chiến sự, nhưng lại ẩn giấu một biểu tượng sâu sắc về lòng yêu đất nước về ý chí hy sinh cao cả. Chính Hữu làm thơ như viết văn bia, từng chữ, từng câu chính xác, hàm xúc và toàn bài là một cấu tứ có sức khái quát giàu ý nghĩa mà lại rất chân thực. Tư lệnh mặt trận đổi chiến thuật tác chiến, từ đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chậm thắng chắc. Bộ đội thực hiện đào hào giao thông từng đêm lấn dần vào tung thâm trận địa. Mỗi đêm hi sinh đến một tiểu đội. Thơ Chính Hữu không giấu những hi sinh ấy. Và giữa trận, ông tìm ra định nghĩa về đồng đội: “Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp/ Chia nhau cuộc đời chia nhau cái chết”. Thơ cắn răng ghi lại những tư thế hi sinh và tên những nấm mộ dọc theo hai bên đường phát triển chiến hào:
Bạn ta đó
ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong.
Ôi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trong tư thế tiến công!
Bên trái: Lò Văn Sự
Bên phải: Nguyễn Đình Ba,
Những đêm tiến công, những ngày phòng ngự,
Có phải các anh vẫn còn đủ cả
Trong đội hình đại đội chúng ta?
Ý thơ tiến dần trong từng câu đã phát triển thành tứ của toàn bài:
Khi bạn ta
lấy thân mình
đo bước
Chiến hào đi,
Ta mới hiểu
giá từng tấc đất.
Thơ về giải phóng Điện Biên chưa nhiều như khi ta viết về giải phóng Sài Gòn, nhưng cũng không ít. Còn có Nguyễn Đình Thi, Trần Lê Văn, Trần Dần… Nhất là mảng ca dao, thơ lục bát, thơ vui của dân công, bộ đội. Ở đây xin chỉ chọn giới thiệu hai bài tiêu biểu cho hai khuynh hướng viết. Thơ về Điện Biên còn được viết trong nhiều năm sau này, cố nhiên theo những chủ đề mới, nảy sinh vào lúc đó. Thơ về liệt sĩ Bế Văn Đàn lấy thân làm giá súng được Trinh Đường viết năm 1964, khi giặc Mỹ mở chiến tranh xâm lược ra Miền Bắc. Sau đó Huy Du phổ nhạc, đã mang sức mạnh Điện Biên, ý chí Điện Biên vào chiến trường kê cao giá súng xả đạn xuống đầu thù:
Hoa ban chan bao nước mắt anh Pù
Thân giá súng vẫn còn nguyên chỗ cũ
Miền Nam đang xả đạn xuống đầu thù
Vận hội Đổi Mới mở ra nhiều thời cơ xây dựng phát triển đất nước, nâng cao mức sống người dân. Nhưng cũng xuất hiện những nguy cơ hút con người vào hưởng lạc, gian manh, thoái hóa. Đã có những người là anh hùng ở giai đoạn trước lại thành bị cáo ở giai đoạn sau. Tiếng hò dô ta của Điện Biên xưa kéo pháo như lại vang trong tâm trí, kêu gọi, thôi thúc. Tôi xin được kết thúc bằng bài thơ Hò dô ta nào, của lứa chúng tôi, những đứa trẻ được đón chiến thắng Điện Biên ở tuổi đầu trung học.
Bài thơ tôi viết trong những lần kỷ niệm giải phóng Điện Biên trước đây.
Hò dô ta nào!
Hò dô ta nào!
Cái dây tời các anh choãi chân đứng kéo
Bây giờ vẫn căng
Vịn vào tiếng hò xưa
Chúng tôi nắm những dây tời mới
Kéo qua mỗi ngày thường
Những vất vả nhọc nhằn chưa hết
Bao đỉnh cao mù sương
Trong lòng người
Phải vượt.
Câu thơ chớ lên gân
Nhưng đã nắm đầu dây thì đừng tiếc sức
Kéo một câu thơ vượt
Cái khôn khéo đầu môi cũng mệt
Nhưng xuôi tay thì lăn xuống vực
Lăn cả khẩu pháo xưa Tô Vĩnh Diện đã chèn.
Vừa phải kéo tời căng, vừa phải chèn như Tô Vĩnh Diện
Tiếng hò dô dù có âm thầm
Dù chỉ hò dô bằng ánh mắt
Bằng lòng tin, vầng trán đăm đăm.
Tô Vĩnh Diện năm ấy bao nhiêu tuổi
Bao nhiêu tuổi những ai năm ấy vai bầm?
Câu thơ viết nửa chừng muốn khóc
Đường pháo đi hôm ấy cũng mưa dầm.
Các anh không định nghĩa Nhân dân
Được rõ rành như hôm nay chúng tôi định nghĩa
Các anh hiểu bằng tim, và chỉ tim mới thế
Rằng khẩu pháo đang lao đừng tính nó bằng tiền
Tính bằng máu và các anh nhận trả
Cái phép tính nhanh như phản xạ
Còn lay người cho đến hôm nay.
Hò dô ta nào!
Tiếng hò trận mạc
Bấy nhiêu năm vẫn cứ hàng ngày.
V.Q.P