Đời lính, nghề thầy thỏa ước mơ

(Nhân đọc 3 tập thơ: “Nghiêng nghiêng bóng núi”, “Thao thức một miền quê”, “Lau thưa xào xạc mãi” của tác giả Lê Ngân)

                                                       QUANG BÁCH

 

Nhà giáo, nhà thơ, cựu chiến binh Lê Ngân là đồng nghiệp trong lĩnh vực giáo dục của tôi. Vì rất yêu quý, kính trọng ông nên tôi đã vẽ tặng ông bức chân dung bằng ngôn ngữ, thông qua bài thất ngôn bát cú đường luật, với tiêu đề “Bức chân dung tự họa”, kèm theo dòng đề tặng chân tình “Kính tặng nhà giáo, nhà thơ, cựu chiến binh Lê Ngân”:

            Nghiêng nghiêng bóng núi sáng lời thơ

            Đời lính nghề thầy thỏa ước mơ

            Tiễu Phỉ công đồn đồng đội đợi

            Bình văn giảng toán học sinh chờ

            Gieo vần báng súng tình man mác

            Xướng họa thi đàn dạ ngẩn ngơ

            Sóng gió đời thường thuyền vững lái

            Khiêm nhường lãng mạn một người thơ.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình gia phong nề nếp ở Yên Bái. Năm nay Lê Ngân đã ở tuổi 90, cách nói người xưa là thượng thượng thọ. Ông sống qua nhiều chế độ, chứng kiến và tham gia nhiều cuộc chiến tranh vệ quốc. Sự trải nghiệm cuộc đời đã đem đến cho thi tứ của ông những trang, dòng giàu cảm xúc nhân văn ở hai chủ đề “Thơ lính- Thơ thầy”.

Những năm năm mươi thế kỷ trước, ở tuổi 19, 20 chàng thanh niên Lê Ngân sau khi tốt nghiệp phổ thông đã tự nguyện xếp bút nghiên lên đường tòng quân, trở thành bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài và anh dũng của dân tộc. Ngày đi thật trong sáng, hồn nhiên và lãng mạn “Bất chợt xôn xao đàn bướm đỏ/ Nương gió theo người lên chiến khu” (Ngày đi, trang 5, tập thơ Nghiêng nghiêng bóng núi). Ở chiến khu, mỗi lần hành quân, giác quan tinh nhậy của thi nhân như nghe được lời tâm sự của ngàn sao khi đồng hành với người ra mặt trận “Ngàn sao hẳn nhớ người năm ấy/ Thì thầm kể mãi chuyện hành quân” (Qua Khau Phạ, trang 17- Tập thơ Nghiêng nghiêng bóng núi). Để rồi trong chiến tranh ác liệt, sống thiếu thốn, đói khát, sự sống và cái chết liền kề gang tấc mà không hề sợ hãi, chùn bước, người lính chiến tự động viên mình “Lính tình nguyện chống Pháp đều thế cả/ Gánh nhẹ thênh cả một trái tim hồng” (Trắng mãi một mùa hoa, trang 70, tập thơ Thao thức một miền quê).

Từ hình tượng Trái tim hồng, mạch thơ Lê Ngân đã đưa người đọc đến chiến trường gian khổ. Ở đó anh bộ đội Cụ Hồ đã vượt lên tất cả, thể hiện tinh thần chiến đấu, hy sinh dũng cảm. Mặc cho “Mảnh bạt che chẳng kín ba lô/ Súng đạn trên vai chân tay tê dại” hoặc “Lạnh thấu xương manh trấn thủ mỏng tang” nhưng “Đơn vị anh vẫn vững vàng tay súng/ Tìm diệt bọn Vàng Bâu, Xèo Lẻng lũ phỉ gian”. Ngoài những bài thơ khắc họa thành công hình ảnh người lính khi mặt giáp mặt với kẻ thù, nhìn đồng đội hy sinh, sự đau xót, tiếc thương trào dâng lên đầu súng, sức mạnh vô hình bỗng nhiên ùa tới, người lính nhắm mắt siết cò trút hết căm giận vào đội hình đối phương, nhà thơ Lê Ngân còn có những vần thơ làm xúc động tận đáy lòng người đọc. Đó là sự hy sinh của người bạn chung một chiến hào bởi bệnh tình trầm trọng và sự khắc nghiệt của thiên nhiên “Trận phục kích đêm qua không gặp địch/ Vẫn xót xa một chiếc lá lìa cành” (Nhớ một ngày, trang 13, tập thơ Thao thức một miền quê).

Tây Bắc mù sương, quân doanh luôn thay đổi bởi nhiệm vụ chiến trường, những miền đất có dấu chân người lính đi qua đã để lại trong thơ Lê Ngân nhiều kỷ niệm đẹp, nhiều ấn tượng khó quên “Chiềng Ve ơi! Một thời quá khứ/ Mãi theo ta khắc đậm in sâu” (Một thoáng bâng khuâng, trang 26- Nghiêng nghiêng bóng núi). Và hôm nay mỗi khi nhớ về những kỷ niệm ấy, dòng hồi ức trong thơ ông lại xao xuyến, bồi hồi “Bảy mươi năm trước hư vô/ Mà nay tóc đã bạc phơ mái đầu/ Mười năm lính chiến rừng sâu” (Bảy mươi, trang 84- Lau thưa xào xạc mãi). Thời gian gần đây, cựu chiến binh Lê Ngân có dịp lên thăm chiến trường Điện Biên Phủ. Trước những hàng bia liệt sĩ, tay run run cắm nén hương trầm, tưởng nhớ đồng đội năm xưa, lời thơ Lê Ngân lại một lần nữa khiến ta rưng rưng xúc động bởi chỉ một dấu hỏi tu từ đắc địa “Có phải máu hồng trong ngực đất/ Mỗi mùa lại trổ một đài hoa” (Lên đồi A1, trang 25, Nghiêng nghiêng bóng núi).

Nhật chạy, Pháp thua, Phỉ đầu hàng, anh bộ đội Lê Ngân được về học tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ra trường, trở về Yên Bái gắn bó với ngành Giáo dục ba thập niên. Sự cống hiến của thầy Hiệu trưởng cấp 3 Lê Ngân được nhiều thế hệ học trò, giáo chức và lãnh đạo các cấp, các ngành ghi nhận. Nhiều bài thơ viết về sự nghiệp trồng người của thầy từ năm 1950 đến nay đã góp phần chứng minh cho sự phát triển không ngừng của phong trào thơ ca Yên Bái.

Mái trường quê hương gắn liền với bao kỷ niệm ấu thơ, nơi ươm trồng ước mơ cao đẹp đã đi vào thơ Lê Ngân bình dị, tự nhiên mà chứa chan hoài niệm “Đâu rặng lem già phủ bóng kín sân trường/ Ríu rít giờ chơi rải ranh bi đáo/ Thầy xưa bạn cũ ai đầu trời cuối đảo/ Ai mất ai còn có nhơ mái trường xưa” (Thao thức một miền quê, trang 21, trong tập thơ cùng tên).

Những ngày tham gia chiến đấu chống giặc Pháp, tiễu Phỉ, bước chân người lính trẻ Lê Ngân có dịp đi qua nhiều địa danh vùng cao Tây Bắc và ở đó có những ngôi trường, những cô giáo trẻ, những đêm xem biểu diễn vở kịch thơ “Điền và Lúa” của tác giả Lê Ngân đã in đậm dấu mốc thời gian trong đời lính, đời thầy của nhà thơ “Đồn cao đơn vị còn không/ Trường xưa chắc vẫn nhơ mong người về” (Xuân xanh, trang 20, Thao thức một miền quê).

Cầm trên tay tấm bằng tốt nghiệp Đại học Sư phạm, thầy giáo, nhà thơ Lê Ngân lại hăm hở trở về vùng cao Yên Bái. Ở đó vẫn còn nhiều các thanh thiếu niên đói chữ, đói cơm đang rất cần những luồng ánh sáng mới. Thời điểm này cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta lại đang ở giai đoạn cam go, ác liệt. Trường học phải sơ tán để tránh đạn bom kẻ thù. Thầy giáo, nhà thơ, chiến sĩ Lê Ngân lại cùng đồng nghiệp vượt qua mọi khó khăn gian khổ ở nơi trường đóng “Trường sơ tán rừng sâu Yên Thái/ Đêm xuống rồi sương sa lạnh lòng thung/ Đường hun hút ướt đầm trăng đầu núi/ Ngọn đèn mờ bài soạn dở chưa xong” (Yên Thái, trang 50, Thao thức một miền quê).

Nhiệm vụ nặng nề, vừa hoàn chỉnh địa điểm ngôi trường cấp 3 sơ tán ở huyện vùng cao này, lại phải nhận nhiệm vụ sơ tán ngôi trường cấp 3 của huyện vùng cao nơi khác. Song thầy giáo Lê Ngân không hề một chút băn khoăn, tự nguyện cùng túi hành lý tư trang và một ba lô đầy sách vở lên đường. Sự gian truân vất vả ở đây đã được nhà thơ khắc họa thông qua hình tượng thơ mang tính khái quát, tượng trưng nhưng sức biểu cảm vô cùng sâu sắc “Những đường hầm ụ pháo hố sâu/ Chằng chịt dây leo cỏ cây bao bọc/ Trường cấp 3 Văn Yên/ Ta gọi ngôi trường trận địa đầu tiên” (Ngôi trường nỗi nhớ, niềm tin, trang 54 - Nghiêng nghiêng bóng núi).

Tháng năm nối tiếp tháng năm, nhà thơ Lê Ngân có ba mươi năm trong nghề dạy học. Đến khi “Trên đầu tóc đã trắng màu mây”. Và nói theo chữ dùng của cụ Nguyễn Tiên Điền thì ba mươi năm ấy biết bao nhiêu tình, ta mới thấy được chữ tình trong thơ ông rộng lớn đến mức nào. Đó là tình thầy trò, tình đồng nghiệp, tình yêu nghề qua những trang giáo án giàu tâm huyết và nặng trĩu suy tư. Những kỷ niệm khó quên, cứ mỗi độ hoa phượng về, mùa thi, mùa chia tay của mỗi lớp học trò hồn nhiên, tươi trẻ đã để lại trong thơ Lê Ngân những xao xuyến, bồi hồi, nhung nhớ ... “Phượng hồng sẫm lại cuối hè/ Chia tay kẻ ở người về đôi nơi” (Đợi chờ, trang 92- Lau thưa xào xạc mãi). Đối với những người bạn có chung niềm đam mê vì sự nghiệp trồng người và tương lai thế hệ trẻ, khi phải chia tay nhau, lời thơ Lê Ngân nhẹ nhàng nhưng thâm trầm, sâu lắng. Ông thường sử dụng các thể thơ truyền thống như lục bát, đường luật... để diễn tả tâm trạng “Vẫn còn nặng nghĩa nghề thầy/ Cánh chim không mỏi mê say lựa vần” hoặc “Nhớ bác xuân này tuổi tám mươi/ Nghề thầy tận tụy chẳng hề ngơi” (Chia tay, trang 55; Viếng bạn, trang 51- Thao thức một miền quê). Đọc và suy ngẫm kỹ ta mới thấy, thơ viết về đồng nghiệp của Lê Ngân thường có sự chọn lọc kỹ càng ở cả hai phương diện: Lập tứ, lập ngôn. Tứ thơ Lê Ngân mang tính hiện thực khách quan, khoáng đạt, rõ ràng, mạch lạc, người đọc dễ dàng nhận biết vấn đề nhà thơ định đề cập tới. Còn ngôn từ trong thơ Lê Ngân chuẩn xác, sắc thái biểu cảm cao góp phần làm cho cách diễn đạt trong thơ thêm phong phú, đa dạng. Những câu thơ sau đây, theo tôi là minh chứng cho sự thành công của Lê Ngân về cách lập tứ, lập ngôn và sử dụng khá nhuần nhuyễn các thủ pháp tu từ nghệ thuật. “Cám ơn những người thầy, có người còn người mất/ Người đã nghỉ hưu, người đang đứng lớp/ Những người đầu tiên, những người kế tiếp/ Những người lái đò đầu bạc, đầu xanh/ Những người chăm lo cho hoa phượng mãi đỏ cành” (Ngôi trường nỗi nhớ, niềm tin, trang 55, Nghiêng nghiêng bóng núi).

Hoàn thành nhiệm vụ người lính chiến biên cương, làm tốt trọng trách của một thầy giáo, một cán bộ quản lý giáo dục, cựu chiến binh, nhà giáo, nhà thơ Lê Ngân được Đảng, Nhà nước cho nghỉ chế độ đã gần ba chục năm nay. Tuy tuổi cao, tinh thần trí tuệ, thể lực giảm sút nhưng ông vẫn có những bài thơ hồi ức về phận lính duyên thầy thấm đậm chất trữ tình. Bài thơ “Cuối chiều” trang 66- Tập thơ Thao thức một miền quê mà ông viết cách đây 15 năm là một trong nhiều bài thơ như thế.

            Xuân này thôi đã bảy lăm xuân

            Bóng ngả chiều hôm quá bảy phần

            Lính chiến mười năm trời vất vả

            Nghề thầy ba chục tuổi gian truân

            Hằn sâu nỗi nhớ tình biên giới

            In đậm tình thương mái lớp thân,

Tím ngắt hoàng hôn hoài niệm... nhớ

Cuối chiều lưu luyến một thời xuân.

            Kính chúc tác giả thơ Lê Ngân sức khỏe, phúc lộc trường hưng, mãi là cây bóng quế hòe trong vườn hoa thảo hiền con cháu, có nhiều thơ hay đến với độc giả trong thời gian tiếp theo.

                                                                                                                    Q.B

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter