Hình tượng rồng trong văn hoá Việt

ĐỖ NGỌC DŨNG

 

           Hình tượng rồng từ lâu đã là biểu tượng gần gũi với người Việt Nam nói riêng và văn hóa phương Đông nói chung. Là biểu tượng thiêng liêng gắn với nguồn gốc “Con Rồng, cháu Tiên” của người Việt. Là con vật trong 12 con giáp được coi là huyền bí, đại diện cho quyền lực, sự may mắn, thịnh vượng, sự thăng tiến, là tín hiệu tốt lành cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Năm Thìn là năm được người Việt quan niệm, mang lại những điều tốt lành, thịnh vượng cho mỗi cá nhân, tập thể, mang lại sức mạnh, luồng sinh khí mới cho đất nước. Người đời cho rằng những người sinh ra trong năm Thìn luôn gặp may mắn trong đời và có sự thăng tiến, thành đạt hơn nhiều năm khác. Vì thế con rồng luôn có vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.

Nguồn gốc của rồng

            Rồng còn được gọi là Long, loài vật đặc biệt được biết đến cả trong văn hóa phương Đông và phương Tây. Với phương Đông, nó là con vật mang thân hình của rắn, vảy cá, bờm sư tử, sừng hươu, biết bay mà không có cánh, mang trong mình sức mạnh thiên nhiên, đại diện cho 4 nguyên tố tạo nên vũ trụ: Nước, lửa, đất, gió biểu tượng cho sự cát tường. Trong văn hóa phương Tây, rồng được biểu đạt như một con thằn lằn khổng lồ, có cánh và phun ra lửa, là biểu tượng cho sự hung dữ (cái ác). Trái lại văn hóa phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, rồng được coi là linh vật mang sức mạnh siêu nhân, nằm trong bát bộ Thiên Long (Long, Lân, Quy, Phượng) đem lại sự may mắn (cái thiện). Người Việt xưa coi mình là “Con Rồng, cháu Tiên” xuất phát từ truyền thuyết Lạc Long Quân- Âu Cơ, sinh ra bọc trăm trứng, nở ra trăm con, 50 người theo cha xuống biển, 50 người theo mẹ lên rừng. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu làm vua, lập nên nước Đại Việt, lấy niên hiệu Hùng Vương. Từ đó, người Việt càng tự hào về dòng giống Tiên- Rồng của mình.

            Theo các nhà nghiên cứu: “Rồng là con vật đặc thù chung cho tất cả các dân tộc Việt và chính từ đây nó đã lan tỏa đi vào văn hóa Trung Hoa”. Chính người Việt từ ngàn xưa ở khu vực sông Dương Tử đã biết trồng lúa nước, đánh cá, săn bắt… Điều đó là cơ sở để chứng minh rằng: “Hình tượng con rồng trong văn hóa Việt Nam và phương Nam, đã đi vào văn hóa Trung Quốc từ chiếc nôi Bách Việt lan truyền ra xung quanh”. Từ các tài liệu nghiên cứu và tìm hiểu thực tế qua họa tiết trang trí trống đồng, cung đình, hoàng bào… cũng như từ các đình, chùa cổ, đặc biệt trên Thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái)… Hình rồng khi đó còn đơn giản cũng được gọi là giao long. Như đã nói ở trên rồng hình thành trong trí tưởng tượng của con người từ sự kết hợp của đa loài: Rắn, cá sấu, cá ngựa, hổ, chó, chim, thuồng luồng, kỳ đà… Tứ chi của rồng cũng có nhiều loại như loại 5 móng, 4 móng, 3 móng; cũng có loại không chân. Rồng 5 móng được bài trí và sử dụng như biểu tượng của vua chúa, quan lại chỉ được phép dùng hình tượng rồng 4 móng, dân gian chỉ được sử dụng hình tượng rồng 3 móng trang trí kiến trúc hay nghệ thuật hội họa.

            Hình tượng rồng qua các thời kỳ

            Thời kỳ Hùng Vương, với đặc thù của dân lúa nước ở các ven sông qua các vật dụng trang trí, trừ các đồ đồng. Đặc biệt là trên trống đồng, hình tượng rồng – linh vật được xếp vào hàng bậc nhất đứng đầu trong tứ linh bát bộ, là con vật có thân dài, vẩy cá sấu còn được gọi là “Giao Long”.

            Đến thời Lý, hình tượng rồng được khắc họa rõ nét. Rồng thường có 4 chân, mỗi chân có 3 móng nhọn, đầu ngẩng cao, miệng há rộng với hàm răng nhỏ, có mào lửa, phía trước đầu có hoa văn hình chữ S, tượng trưng cho sức mạnh, quyền uy hô mưa, gọi sấm. Trong tổng thể hình dáng dài như rắn, đặc biệt thân mềm mại uốn cong nhiều vòng nhỏ dần về đuôi.

            Đến thời Trần, hình tượng rồng được mô tả thân tròn khỏe, mập dài, uốn lượn võng như yên ngựa, đuôi rồng có nhiều dạng, lúc thẳng nhọn, khi thì xoắn ốc, hình vẩy đa dạng, khi thì là những nét cong, khi là nửa hình tròn như bông hoa, nụ hoa… Đặc biệt phía đầu rồng có thêm chi tiết mới cặp sừng và đôi tai mang dáng vẻ uy nghi của vương triều thời kỳ trọng võ. (Thời kỳ đã từng ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông)

            Rồng thời Lê sơ (hậu Lê), hình tượng rồng được miêu tả hoàn toàn khác với thời Lý- Trần. Thân rồng ngắn, lượn hai khúc lớn, đầu to, mũi to, bờm lớn và không mào lửa, chân có 5 móng sắc nhọn quắp lại mang dáng vẻ dữ tợn.

            Đến thời Lê Trung Hưng chính là thời kỳ nở rộ của các kiến trúc đình, chùa. Vì thế hình tượng rồng được sử dụng với nhiều sáng tạo đa dạng, phong phú phụ thuộc vào yếu tố quan niệm vùng miền và chất liệu. Rồng thường được cách điệu cao, họa tiết cứng khỏe hơn, nổi bật là bộ râu bờm, mào lửa cùng duỗi thẳng sắc nhọn như đao mác. Đặc biệt phần đuôi rồng vẫn tồn tại hình đuôi cá, sự kế thừa của thời kỳ Lê sơ- Mạc.

            Đến thời Nguyễn, tiếp tục kế thừa hình tượng rồng thời trước đó nhưng thay đổi về tạo dáng điều này biểu đạt ở những công trình trang trí kiến trúc, nhất là các thềm bậc mà chúng ta thường gặp mỗi khi ghé thăm cung đình Huế, cũng như các lăng tẩm khác, độ uốn khúc chỉ vồng lên 2 khúc vừa phải nhỏ thấp dần về đuôi, phần đuôi rồng không còn xoắn ốc mà duỗi ra, trán rồng thường lõm vào và trượt về phía sau. Đặc biệt có những sợi lông sắc nhọn đâm tua tủa, chi tiết mang ảnh hưởng của rồng nhà Minh. Thân rồng cuộn hoa văn lửa hoặc mây, râu uốn sóng từ dưới mắt chìa ra, rồng được thể hiện trong nhiều tư thế ẩn hiện trong đám mây, hoặc lưỡng long triều nhật, lưỡng long chầu hoa cúc, lưỡng long chầu chữ thọ…

            Khi nhà Nguyễn kết thúc, sự phân tầng xã hội trong sử dụng hình tượng, mô típ rồng không còn tồn tại. Vì thế mọi người có quyền thể hiện rồng theo ý riêng với muôn hình vạn trạng như: vân long (rồng mây kết hợp), ứng long (rồng có cánh bay), quỳ long (rồng chầu), giao long(rồng hợp đôi)… Rồng có chân 5 ngón, 4 ngón hoặc 3 ngón hay rồng lượn, rồng cuốn, rồng- phụng… phụ thuộc vào suy nghĩ và đôi tay của người nghệ nhân, nghệ sĩ. Hình tượng rồng cũng không còn khắt khe trong tính chất tối thượng thiêng liêng vương quyền, mà thay vào đó là rồng được sử dụng rộng rãi trong dân gian, thể hiện qua các công trình kiến trúc, hội hoạ, chạm khắc trang trí nghệ thuật với ý nghĩa bình dị.

            Rồng trong tâm trí người Việt

            Người Việt tự hào là con Rồng, cháu Tiên từ truyền thuyết Lạc Long Quân- Âu Cơ. Vì vậy hình tượng rồng luôn có vị trí đặc biệt trong tư tưởng của người Việt, là hình tượng con giáp đặc biệt, được thể hiện ở nhiều góc độ nghệ thuật và chất liệu khác nhau, nhằm biểu đạt cho sức mạnh, ý chí và khát vọng vươn lên của cá nhân, dân tộc. Trong 12 con giáp, rồng đứng thứ 5, nhưng là loài vật duy nhất không tồn tại trong tự nhiên, nó là sự sáng tạo trong trí tưởng tượng của con người, về một con vật hội tụ những nét đặc trưng ưu điểm nhất của những con vật có thật (Thân rắn, vảy cá chép, đầu lạc đà, mũi và bờm sư tử, chân hổ, sừng hươu, móng vuốt đại bàng, đuôi gà trống…)

            Là con vật được xếp đứng đầu tứ linh, vì thế hình tượng rồng luôn được thể hiện ở tư thế uy nghi, mạnh mẽ trong chốn cung đình, biểu tượng cho bậc đế vương. Trong dân gian thì được coi là con vật linh thiêng, vẻ đẹp hoàn mỹ và sức mạnh phi thường. Nó được xuất hiện sớm trong đời sống người Việt cổ với tục săm hình rồng trên người để thị uy những loài thủy quái. Trong nghệ thuật trang trí rồng xuất hiện trên mọi chất liệu, với những hình thức biểu đạt và ý nghĩa khác nhau, phụ thuộc vào vị trí trang trí như trên bậc lối đi, trên bình phong, bia mộ, lăng tẩm. Nổi bật ở thời Lý- Trần là phù điêu đá trạm tháp tròn ở chùa Phật Tích, tháp Chương Sơn, các điêu khắc đá ở điện Lam Kinh Thanh Hóa, điện Kính Thiên trong Hoàng thành Thăng Long, bia đá Văn Miếu- Quốc Tử Giám. Đặc biệt hình rồng có niên đại thế kỷ XII- XIII trên các cấu kiện đất nung ngôi chùa cổ đổ nát trên núi ông xã Xuân Áng- Hạ Hoà. Hoặc bức chạm thứ sáu có tên gọi vân long đại hội trong bảy bức chạm nổi tiếng của đình Hùng  Lô- Việt Trì (Phú Thọ) gồm rất nhiều rồng lớn, rồng bé như đang cuốn trong mây vần vũ như ước muốn về cuộc sống nhàn tản, phong lưu, một đất nước thái bình thịnh trị… Hay Lăng tẩm nhà Nguyễn được xem là những tác phẩm tiêu biểu nhất. Trên các chất liệu vàng, bạc, đồng… rồng cũng được thể hiện nhiều và ở nhiều tư thế như uốn cong, ngồi, nằm sấp, nằm ngửa… thể hiện trên các ấn báu, vật gia bảo quý hiếm của hoàng cung. Ngoài dân gian hình tượng rồng được thể hiện nhiều trên các đồ gốm sứ, theo lối vẽ dân gian đường nét kết hợp với mảng đậm nhạt, có hình mây lửa tạo sự lung linh huyền diệu cho rồng. Bên cạnh cách thể hiện bằng trạm khắc và bút vẽ thì nghệ thuật đắp vữa, gắn sành sứ tạo hình rồng cũng rất phổ biến trên nóc, mái các cung điện, đền đài… tiêu biểu như nóc và cổng chính điện Thái Hòa nhà Nguyễn, có thể nói dưới đôi tay tài hoa và óc tưởng tượng phong phú của người nghệ nhân, những hình rồng sống động như đang bay lượn trong bầu trời. Bên cạnh đó, trong trang trí dân gian, hình ảnh chạm trổ rồng trên gỗ trong hệ thống cột, kèo, hoành phi, câu đối, cửa tam bảo, cửa võng ở đình, chùa, đền miếu với những đường nét sắc sảo tinh vi và công phu, chỉ sau trang trí ở các cung điện. Tiêu biểu là hình chạm khắc trên gỗ ở chùa Keo- Thái Bình, trong đó có bộ cánh cửa chạm rồng được công nhận là bảo vật quốc gia. Hình tượng rồng trong trang trí vẫn tồn tại và phát triển cho đến ngày nay, như một nét văn hóa truyền thống của người Việt. Thông qua việc trùng tu, tôn tạo, xây mới các công trình kiến trúc lịch sử văn hóa. Hình ảnh mà ngày nay chúng ta thường bắt gặp khi thăm viếng các lăng tẩm, đình, chùa… Lấy hoa văn trang trí hình rồng làm chủ đạo, vừa đẹp về thẩm mỹ, vừa đạt được ý nghĩa và sự tôn nghiêm. Người Việt như có ý quy tụ nhóm tứ linh (long, lân, quy, phụng), thành một bộ linh ứng thống nhất trong các bố cục trang trí: “Tứ linh hội tụ”Dây lá hóa Long”.

            Với những đặc tính được tạo thành từ sự kết hợp giữa tự nhiên, do vậy rồng mang trong mình hết thảy các ưu thế vượt trội của mọi loài vật, rồng có sự mạnh mẽ phi thường, rồng được cho là biểu tượng của sức mạnh hùng tráng, uy lực trước mọi kẻ thù. Với tính năng siêu việt đó, rồng được tin là vật mang lại điềm lành, sự may mắn, thịnh vượng. Đồng thời là sự tin tưởng gửi gắm ước vọng của con người cầu cho mưa thuận, gió hòa, cầu phồn thực. Rồng xuất hiện là biểu tượng của chân, thiện, mỹ, nơi có thế rồng uốn được coi là long mạch, vượng khí, có mồ mả, nhà cửa tọa lạc trên những khu đất này sẽ được coi là đất tốt, giúp nhiều đời con cháu phồn thịnh, phát tài, phát lộc đế vương. Rồng còn đại diện cho tính dương, sức mạnh của người đàn ông, song cùng với rồng là phượng hoàng đại diện cho người phụ nữ, hình ảnh rồng- phượng được xem như cuộc sống hài hòa âm dương. Chính vì vậy, dân gian mới xuất hiện các mô típ. rồng hút nước biển Đông tưới vào đồng ruộng, cá chép vượt vũ môn hóa rồng, rồng bảo vệ dân lành trừng trị kẻ ác. Trong phong thủy chọn thế đất hợp (long mạch, long hổ hội) mượn tên gọi long- rồng để đặt trên đất (Thăng Long, Hạ Long, Cửu Long, Hải Long, Hàm Rồng…).

Trong ca dao tục ngữ, hình tượng rồng luôn được dùng để chuyển tải ý nghĩa cao quý, ví von có tác dụng tâm lý mạnh mẽ: “Một ngày tựa mạn thuyền rồng/ Còn hơn chín kiếp ở trong thuyền chài”; “Bao giờ cá chép hóa rồng/ Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa”; “Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng/ Trăm khôn, nghìn khéo không chồng cũng hư”; “Trứng rồng lại nở ra rồng/ Liu điu lại nở ra dòng liu điu”.

Hay để truyền tải thông điệp tình yêu: “Nhớ chàng như vợ nhớ chồng/ Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây”; “Tình cờ anh gặp mình đây/ Như cá gặp nước, như mây gặp rồng”…

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, hình tượng rồng vẫn luôn gần gũi với con người, trước hết qua các đồ gỗ nội thất, đồ gia dụng trong gia đình, qua các vật phong thủy, đồ thờ cúng, đồ trang sức như: Nhẫn rồng, dây chuyền mặt rồng, thời trang có hình rồng trên các váy áo sang trọng… Trong nghệ thuật tạo hình, nhiều tác phẩm điêu khắc của các nhà điêu khắc thể hiện rồng rất công phu như chạm gỗ, hay gò đồng, thể hiện sức mạnh khí phách của rồng trong trời đất. Trong hội họa, rồng là một trong những con giáp được các họa sĩ vẽ khá nhiều, với những tìm tòi thể nghiệm mới lạ. Tiêu biểu là các họa sĩ như: Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Lê Trí Dũng, Đỗ Phấn và Thành Chương… Minh chứng qua các cuộc triển lãm mừng Đảng, mừng Xuân do Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức mỗi dịp đón xuân mới. Chắc chắn triển lãm mừng Đảng, mừng Xuân Giáp Thìn 2024 tới, sẽ có nhiều tác phẩm vẽ rồng đa dạng, phong phú với nhiều tìm tòi táo bạo của các hoạ sĩ ra mắt công chúng.

Người Việt luôn cho rằng khi mang theo hình ảnh con rồng bên người như đồ trang sức, thời trang có hình rồng, hoặc treo một bức tranh rồng trong nhà hướng ra cửa chính sẽ thu nạp được linh khí may mắn, xua đuổi được tà ma, mang lại vượng khí cho mọi người trong gia đình (trừ người tuổi Tuất). Khẳng định được giá trị bản thân, sức mạnh cá tính.

         Với các yếu tố trên, chúng ta có quyền hy vọng năm Giáp Thìn 2024 này sẽ là một năm nhiều may mắn, đầy niềm vui, hạnh phúc và những thành công vượt trội đến với mỗi người dân, gia đình cũng như toàn dân tộc Việt Nam; mang lại sức mạnh cường thịnh, vị thế cho đất nước trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.

 

Đ.N.D

 

Tranh vẽ rồng của danh hoạ Nguyễn Tư Nghiêm

 


 

Tranh rồng của hoạ sĩ Lê Trí Dũng

 

Tranh Nhị Thập Long Chủ của Hoạ sĩ Lê Trí Dũng

 

 

Rồng của Họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng

 


 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter