Hoàng Thế Sinh- Dòng xoáy văn chương

HÀ LÂM KỲ

 

Năm 1990, tôi viết được truyện “Kỷ vật cuối cùng”. Từ đấy, tôi mải mê đi trên đường văn học thiếu nhi. Mười năm sau, ngoảnh lại, bỗng bắt gặp một suối nước, nhưng là suối nước văn phong. Tôi vẫn đi. Ba mươi năm sau. Trước mặt tôi không phải con nước đổ, mà là một “dòng xoáy văn chương”. Tác giả làm sáng lên dòng xoáy văn này, có tên đầy đủ “Hoàng Thế Sinh”- kẻ thích ngậm tẩu ngồi góc bìa sách.

Khởi đầu “Như xửa xưa” chăng?

Tôi và Hoàng Thế Sinh, đồng niên, và cũng có phần... đồng điệu. Tôi vào khoa văn Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc (1971). Sinh vào đây (1971). Tôi nhập ngũ (5/1972). Sinh nhập ngũ vài tháng trước đó, tôi ở Bắc Tây Nguyên (1972- 1975). Sinh vào Đông Trường Sơn, rồi Xiêng Khoảng Nam Lào (1972). Tôi trở về khoa Văn, học tiếp (10/1976). Thương binh Sinh cũng trở lại khoa Văn xưa. Tôi về dạy Trường Sư phạm 10+3 Hoàng Liên Sơn. Sinh cũng về, rồi đi cao học. Nghe nói, những năm Cao học, Hoàng Thế Sinh đã văn hay chữ tốt nên bạn bè tôn làm Chủ nhiệm Câu lạc bộ Văn của Khoa. Giữa năm 1991 tôi công bố truyện dài “Kỷ vật cuối cùng” (NXB Kim Đồng) thì cuối năm, Sinh cho ra mắt tập thơ “Như xửa xưa” (NXB Thanh Niên). Ấy là hai "đầu tay" của cặp đồng niên Cựu chiến binh, nhà giáo.

Được tặng Như xửa xưa, cuốn sách bìa vàng nhám, chữ to, kiểu phăng tê zi, lõi giấy đen, chân chữ cùng kiểu. Thời đó, đã là đẹp. Tôi thích mấy bài được cho là loại thơ "quên chiếc áo trên cành hoa sen" bởi nó có bóng dáng nhiều tà áo trắng áo hồng.

                                   

Em đắm đuối với gam màu nóng lạnh

Đuốc bập bùng như ngọn lửa hoang sơ

Đêm vũ trụ nhập vào ngọn bút

Em vẽ ào nét thực nét mơ.

                                    (Như xửa xưa)

Lạ. Lời nhận xét về "em" hay chính tuyên ngôn văn chương của tác giả, để hôm nay, ba mươi năm sau, chủ nhân Như xửa xưa trở thành "Dòng xoáy Văn Hoàng Thế Sinh" đủ sức thuyết phục người đọc?.

Một đường đi

Chủ nhiệm CLB Văn Hoàng Thế Sinh gắn kết với những bạn văn cao học cừ khôi: Trần Hoà Bình, Châu Hồng Thuỷ, Chu Văn Sơn, Văn Giá, cả Nguyễn Hiền Lương và Nguyễn Ngọc Trìu của "Xứ mưa" Yên Bái. Nhóm bút văn của thầy Trần Đình Sử náo loạn trường mình và các trường bạn ở Hà Nội. Tất nhiên làm hút hồn các cánh áo dài trắng. Tiểu thuyết “Thời hoa đỏ” (1998) chắc chắn thai nghén từ những tháng ngày đầy cảm hứng này. Cầm bằng, Hoàng Thế Sinh trở lại trường, rồi về Hội Văn nghệ Hoàng Liên Sơn làm đồ đệ văn chương cho Chủ tịch Hội- Nhà thơ Ngọc Bái. Nơi này, có hai Sinh. Hoàng Thế là Sinh thầy, Nguyễn Thái là Sinh trò. Sinh trò cũng là người lắm chữ nghĩa, nên Sinh thầy êm êm rút sang Báo Đảng. Ngày về hưu (2012) Hoàng Thế Sinh cầm Thẻ bảo hiểm Phó Tổng biên tập.

Tháng 01/1995, tôi được kết nạp vào Hội Nhà văn. Mười năm sau Yên Bái mới có thêm Hoàng Thế Sinh. Mười bốn năm nữa (2019), có thêm hai: Nguyễn Hiền Lương và Nông Quang Khiêm. Một năm sau có thêm Phạm Quỳnh Loan, năm sau nữa thêm Nguyễn Ngọc Yến. Cửa vào làm hội viên Hội Nhà văn những năm 90, không rào chắn, mà sao khó? Thì đây, Hoàng Thế Sinh, một phần của sự trả lời, ấy là biên niên tác phẩm: Như xửa xưa (Thơ 1991), Tiếng vọng dưới chân núi (Tập Truyện ngắn, 1991), Bụi hồ (Tiểu thuyết, 1992), Thời hoa đỏ (Tiểu thuyết, 1998), Xứ mưa (Tiểu thuyết, 2000), Luật của rừng (Tập Truyện ngắn, 2002), Khát vọng từ đất (Tập Ký 2002), Tài tử Bờm (Tập Truyện ngắn, 2004). Ôi chao. Vào làm cái hội viên Hội Nhà văn Việt Nam mà Hồ sơ tự nguyện của Hoàng Thế Sinh đến 2005, dày cộp thế đây. Điều gì đến, nó khác đến, cố mà được à?! Sinh bảo vậy. Ngẫm vậy. Cũng phải.

Đúng là Hoàng Thế Sinh không cố. Mấy chục năm qua, đầu sách chắc sắp cao bằng đầu người. Mà đầu loại cũng không kém, lại chất. Đây nhé: Tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, lý luận văn học, truyện mi ni bi hài, tản văn, chân dung cuộc sống, cả thẩm định kịch bản phim nữa. Nếu cùng thả các "đầu" này xuống bể Văn chương, tôi chắc có đến ba phần tư, sẽ là của chìm. Đọc sướng!

Sau “Như xửa xưa”, tôi lại được bất ngờ: "Thân thiết tặng Hà Lâm Kỳ. Yên Bái ngày 02 tháng 11 năm 1991. Thế Sinh"! Ấy là tập truyện ngắn “Tiếng vọng dưới chân núi” do Hội Văn học nghệ thuật Hoàng Liên Sơn xuất bản. Cuốn sách giấy giang, còn bột dính, do Hoạ sỹ Kim Tiến vẽ bìa, đã dồn nén 9 truyện ngắn. Tôi mở, tìm ngay "Rét lộc", và đọc. Bởi, truyện đó đang gây xôn xao giới giáo chức Hoàng Liên Sơn sau khi đăng trên báo Văn nghệ.

Rét lộc viết về nhà giáo những năm cuối của thời bao cấp. Cuối thời này, đã xuất hiện trong giới sự rạn nứt mối quan hệ con người với con người. Số đông, tận tâm tận sức với ngành nghề. Số ít, nhoi lên, làm nhẹ, lợi nhiều. Số đông, bươn trải đủ kiểu để kiếm sống và dạy học, họ yêu nghề, yêu học trò và trung thực. Còn số ít thì ngược lại. Tiếc thay, số ngược lại này, lại có cả lãnh đạo chủ chốt và cơ quan chức năng quản lý: "Sau một tuần thanh tra, đồng chí Nham, Phó Giám đốc Sở thay mặt Đoàn thanh tra tuyên bố: "Điều 2, điều 3, điều 5 là vu khống. Mà vu khống là vi phạm pháp luật. Nhưng xét quá trình cống hiến của đồng chí Đặng, chiểu theo đề nghị của đồng chí Trương Trịnh, Hiệu trưởng Trường Phổ thông Trung học Hoàng Liên, chúng tôi sẽ không đưa vấn đề này ra trước công luận, trước pháp luật…! Tôi ngồi chết lặng giữa hội trường, tôi đã bị bỏ rơi. Tôi đã bị lừa dối. Tôi trở thành kẻ vu khống bỉ ổi!" (Tiếng vọng dưới chân núi, Tập truyện, Hội Văn học nghệ thuật Hoàng Liên Sơn, trang 66).

Cái "mạch" Rét lộc ấy đeo đai Hoàng Thế Sinh mấy mươi năm trời để rồi anh gây choáng bạn đọc với loạt tiểu thuyết cảnh báo: Rừng thiêng (2007), Thuốc phiện và lửa (2013), Ma tiền (2016), Chúa đất miền Khau Sưa (2020), Dĩ nhiên, để đến được mấy quả bom có sức công phá này, Sinh đã đưa những Rét lộc, Người nuôi cá sấu, Luật của rừng, Người nông dân nhỏ bé, Sềnh bông phèng… rải dọc đường đi một cách gian nan. Ý tưởng xa xôi và ý thức kiên định ấy có từ những năm 88- 89 thế kỷ trước: "Tôi thấy rất rõ đôi mục kỉnh của Trương Trịnh soi tôi từ đầu đến chân như soi một vật kỳ lạ. Tại sao tôi lại trốn tránh cuộc đời? Tôi đau khổ, phải, nhưng tôi không thể là một thằng hèn". (Rét lộc- Tiếng vọng dưới chân núi, trang 80). Bản lĩnh của nhân vật ("Tôi" ở đây là Đặng). Cũng là bản lĩnh của người viết- Hoàng Thế Sinh, vậy đấy.

Vẫn biết Hoàng Thế Sinh chọn cho mình một đường bút rất sớm. Nhưng có lẽ bắt đầu từ những bài thơ? Vậy là Sinh bước hai chân (Tập Thơ, tập Truyện, ra mắt cùng năm 1991) mà hai chân bao giờ cũng đều, và chắc. Nên cái kênh “người lớn”, cái chuyên “vấn đề xã hội” được Bút Sinh, Văn Sinh tung hoành, mổ xẻ đến tận ngõ ngách những gì của căn bệnh lạ ủ trong cơ thể Việt Nam ngay từ cuối bao cấp và có nguy cơ bùng phát ở thời kinh tế thị trường. Hoàng Thế Sinh như người dùng bút chấm phá nhận mặt căn bệnh này. Nếu như bút ký “Tất cả trên vai người lính” của Ngọc Bái cùng thời điểm, dội vào vách cộng đồng, thì loạt truyện ngắn của Thế Sinh kiểu “Rét lộc” vừa dội vào cộng đồng, và bám theo cộng đồng xã hội tạo nên hiệu ứng cảnh báo, rằng, ở lô tiểu thuyết: Bụi hồ, Rừng thiêng, Ma tiền, Chúa đất miền Khau Sưa... có chân tướng bọn vô học, bọn quan tham, và bọn xã hội đen giấu mặt. Nhưng đang dần dần lộ mặt. Rồi sẽ đến ngày bị nhân dân lật mặt.

Nói về tiểu thuyết “Ma tiền”- Nhà xuất bản Quân đội nhân dân 2000, Nhà xuất bản Thanh niên bình luận: “Ma tiền đã phơi bày những bi kịch của những thân phận con người mà đồng tiền đã làm tha hóa nhân cách của họ”. Còn tác giả Cảnh Mạnh thì viết: “Con người, dù có ma mãnh thủ đoạn đến mấy, cũng không thể thoát nổi lưới trời tâm đức” (Báo Yên Bái, 25/11/2016). Còn tôi, thành viên Hội đồng Chung khảo giải thưởng Văn học nghệ thuật Yên Bái năm 2020 thấy rằng: Nếu như Ma tiền (Tiểu thuyết của Hoàng Thế Sinh) chạm đến tính tha hóa của người có đồng tiền... thì Chúa đất miền Khau Sưa, là sự tinh quái của nhóm người rửa tiền. Đồng tiền “bẩn”, và nhóm người ấy đã nhanh chóng bám sâu, bám chặt vào mảnh đất kinh tế thị trường mới hình thành, nó, cơ hồ trở thành mối nguy hại bóp nghẹt xã hội.

Chỉ sơ sơ hai, trên nhiều tiểu thuyết lớn của một mạch tác phẩm cảnh báo, đã thấy Nhà văn Hoàng Thế Sinh có trí tưởng tượng, có sức hư cấu trên cái nền nhập cuộc xã hội dồi dào đến như thế nào? Tôi là kẻ viết cho thiếu nhi, loanh quanh “Làng nhỏ”, Không dám lạm bàn đến tư tưởng tác phẩm, đến nghệ thuật tác phẩm của loạt tiểu thuyết dậy sóng này. Chỉ trộm nghĩ rằng: Ba mươi, năm mươi năm sau, người người đọc lại, kháo nhau mà rằng: ông viết văn đã nhìn thấy điều này từ mấy chục năm trước rồi! Ôi. Nhà văn chắc sẽ không có gì sướng hơn những lời bình luận thực lòng đó của thế hệ bạn đọc.

Văn Hoàng Thế Sinh là thế. Văn dự báo. Văn cảnh báo, nằm trong Nhân văn. Khi các tác giả kịch bản chuyển những tiểu thuyết này của Sinh thành kịch bản phim dài tập, sức công phá của “Nghệ thuật thứ 7” mạnh lên nhiều lần thì Văn Sinh đến với công chúng sẽ là cấp số nhân.

Khoảng năm 2006 Hoàng Thế Sinh nói với tôi: “Đi dần vào tổng kết!”. Tôi tròn mắt. Nhưng rồi bất chợt nhớ lời tâm sự của Nhà văn Ma Văn Kháng: "Cứ mười năm, mình tự nhìn lại chặng sáng tác một lần". Tôi ngóng được xem bản “Báo cáo” Văn chương của Sinh. Nhưng không. Sinh làm đến “uỵch” một cái, in gộp ba cuốn tiểu thuyết: Bụi hồ, Xứ mưa, Rừng thiêng, trên 700 trang (Nhà xuất bản Lao động, 2007). Sách ghi là “Tác phẩm tuyển chọn”. Cứ thế, Hoàng Thế Sinh lần lượt cuốn chiếu khối truyện ngắn, khối bút ký, và lô tiểu thuyết... Năm nay xuân Giáp Thìn, nhà văn tuổi Rồng này vẫn đang triển khai phần “thân bài”. Tôi đồ rằng, những đứa con tinh thần của Sinh còn tiếp tục chào đời. Mùa hạ dư thừa biết bao là lửa/ Mà trong tôi không đủ ấm một chiều! (Bài thơ chưa được đặt tên, Hoàng Thế Sinh). Viết văn, đã là một sự thôi thúc, lại được bạn đọc luôn đợi đón. Nhà văn sao nỡ từ chối? Đến như Tố Hữu đại thụ: “Mới nửa đường thôi, còn bước tiếp” (Đảng và thơ), huống hồ? Văn chương đi liền với nghiệp chướng! Là có thật.

Hoàng Thế Sinh là lính chiến trường, anh tả xung hữu phách trong chiến dịch Cánh đồng Chum- Xiêng Khoảng Lào năm 1972. Chất lính Bộ đội Cụ Hồ hóa thân vào anh, góp phần tạo nên cái riêng trong bút pháp viết văn. Đọc văn xuôi, đọc thơ của Sinh thấy rõ. Đọc bút ký của Hoàng Thế Sinh, càng rõ. Với bút ký, nhà thơ Ngọc Bái nhận xét: “Ngòi bút của tác giả tung tẩy trên nhiều ngả đường, nhiều sự kiện” sau khi “đã bỏ công phu tra cứu, ghi chép những tài liệu liên quan tới từng vấn đề được đề cập trong bút ký” (Ngọc Bái- Hoàng Thế Sinh, sâu đậm những trang ký). Sinh có cái tài, có thể nói biệt tài, là tóm cái “thần” của vấn đề, để làm nên chủ đề và dàn dựng nội dung bài ký, nên nghe những cái tít (tiêu đề) bài viết vừa lạ, vừa hay, người đọc đã muốn lục tìm rồi: Cây đời mãi mãi xanh tươi; Lời cầu nguyện của mẹ; Mở đường lên trời; Đè núi xuống, làm giầu; Nỗi đau ngoài tâm bão; Ngẩng đầu lên bước trước mặt trời; Khúc biến tấu của đá; Miền gái xinh; Mưa núi; Mỏ truyện Trần Cao Đàm... Bút ký đấy. Văn chương, mà cũng rất báo chí. Thông điệp và thông tin, sâu và chắc.

Hữu xạ tự nhiên hương

Những lần đi thực tế sáng tác, tôi để ý thấy Sinh đúc cuốn sổ bé bằng bàn tay vào túi quần. Rồi đủng đỉnh trò chuyện với người ở cơ sở, như chả lo gì đến sẽ nhớ sẽ quên. Ấy thế mà những bài đăng đàn Báo Văn nghệ, Tạp chí Văn nghệ Yên Bái, vẫn gợn sóng là... hay! Tôi ngẫm Hoàng ThếSinh rất khéo trong việc lồng ghép hai nhà: nhà văn và nhà báo vào một ngòi bút. Điều này không dễ với người viết.

Tôi làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Trường Sơn (Trực thuộc Hội truyền thống Trường Sơn Yên Bái), tổ chức buổi giới thiệu Cánh đồng Chum mùa hoa ban khi cuốn tiểu thuyết này vừa trình làng (Quý I/2021). Tác giả Hoàng Thế Sinh ngần ngừ. Nhưng kế hoạch rồi, Nhà văn Nguyễn Hiền Lương thuyết trình trước các cựu chiến binh Trường Sơn và lưu sinh viên Lào tại Yên Bái. Em Mic Key trả lời Đài truyền hình tỉnh: “Cháu mới chỉ nghe giới thiệu về tiểu thuyết “Cánh đồng Chum mùa hoa ban” của bác Nhà văn Hoàng Thế Sinh mà đã thấy rất xúc động và cảm phục, chúng cháu cần phải hiểu hơn nữa về tình hữu nghị Việt- Lào, phải hiểu hơn nữa về quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu trên đất nước Lào”. Được tác giả ủng hộ, hôm đó Hội Văn nghệ Trường Sơn đã tặng các sinh viên Lào tốt nghiệp trở về tổ quốc năm cuốn tiểu thuyết tráng ca chống Mỹ này. Chỉ sáu tháng sau, được tin “Cánh đồng Chum mùa hoa ban” của Hoàng Thế Sinh đoạt Giải thưởng Văn học Sông Mê Kông năm 2021, một giải thưởng quốc tế được trao luân phiên hàng năm giữa 6 quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mê Kông.

Cầm tinh con Rồng, cựu chiến binh, nhà giáo, nhà báo, mà trước hết là Nhà Văn, với khối lượng và chất lượng tác phẩm, Hoàng Thế Sinh- Dòng xoáy văn chương Yên Bái. Tôi nghĩ như vậy, chắc không sai.

H.L.K

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter