Một tấm lòng thơ trong trẻo, tin yêu

Ngọc Chấn

 

Mỗi người đến với thơ bằng một con đường, với Trịnh Thoại trước khi làm thơông đã làm lính “Cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp. Sinh ra ở Nghệ Tĩnh, mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, ngay từ thuở ấu thơ, những câu hò, điệu ví, khúc dân ca đằm thắm trữ tình đã tạo nên một hồn thơ đau đáu nỗi niềm nơi sông Lam, núi Hồng, biển rộng. Dù đi đâu về đâu, xa quê vời vợi ông vẫn nghĩ về quê hương, nơi sinh ra Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, và ông tự dặn mình: Nhớ lời Bác dặn chẳng mờ phai/ Nghe Bác bao năm vẫn miệt mài/ Ba lô sách nặng, mòn vai khoác/ Lội suối trèo non đến mọi nhà/ Tìm trò dạy chữ yêu đất nước/ Canh cánh bên lòng mỗi giây qua.

Hình ảnh cao đẹp của Bác luôn in đậm trong trái tim ông, trái tim ấy không một khoảnh khắc nào quên lời Bác dạy: Sáu mươi năm “Đoàn kết”/ Khắp bản làng xa gần/ “Tăng gia” và sản xuất. Không phải ngẫu nhiên, trong một tập thơ, mang tên “Tiếng vọng suối ngàn”, với 48 bài thơ thì Trịnh Thoại đã có tới 6 bài thơ nhắc tới lời Bác dặn. Khi ở Lào Cai lúc về Yên Bái, suốt những năm dài dạy học ở vùng cao, bao giờ trong ý nghĩ của thầy giáo Trịnh Thoại cũng ghi sâu lời Bác để tự nhủ mình phấn đấu hy sinh, học tập đạo đức Hồ Chí Minh, không một ngày ngưng nghỉ.

Thơ Trịnh Thoại là thơ của một người với Đảng tin yêu. Cả một đời theo Đảng, tuổi 85 ông đã có 60 năm tuổi Đảng, với ông Đảng kỳ luôn tỏa sáng niềm tin chân lý: Rực cháy bao trái tim/ Dưới sắc hồng cờ Đảng/ Trọn đường đi năm tháng/ Ửng nắng trời thu xanh. Ông quan niệm, mỗi việc làm nhỏ bé của mình luôn là nhữngcánhhoa để dâng lên Đảng. Vì thế, mỗi độ xuân về, ông lại thêm vững tin, phấp phỏng trong lòng, mừng vui khôn xiết, để tiếp tục con đường: Rừng xanh cao không làm ta chùn bước/ Biển thẳm sâu không cạn chí vững vàng.

Lòng sao thơ vậy, thơ Trịnh Thoại luôn hướng thiện, trong mất mát đau thương ông luôn tìm đến nhữngđiều nhân ái, tốt lành: Trăn trở trong tình mẹ/ Bên anh như bao người/ Quên mình vì xứ sở/ Tin điều lành mẹ ơi. Với ông, người đã đi qua những thăng trầm, nếm trải cay đắng, ngọt bùi nhưng vẫn giữ cho mình lòng trong, hy vọng: Hồn thơ soi lại chuỗi ngày xanh/ Men say ý tưởng giữ trọn mình. Vốn là người đa cảm nên đọc thơ ông, ta bắt gặp những cuộc đời đi cùng năm tháng. Ký ức thời gian chẳng thể phai mờ, khi ông gặp lại người bạn cũ giữa Sài Gòn hoa lệ: Anh ra đi bao nỗi niềm thương nhớ/ Người đợi chờ day dứt lúc chia xa/ Sao bâng khuâng như thể mới hôm qua/ Nơi cội nguồn hiện hình trên trang viết.

Nhân vật trữ tình được ông khắc họa trong thơ, không phải là ai khác, mà chính là những người lính thời bình giữ biên giới, biển đảo thân yêu: Đồng đội bên nhau hiền như hoa rừng/ Canh giữ đất trời sẵn sàng tung hoa lửa/ Đồn anh chốt giữ biên cương/ Quyện sắc màu bất tử quê hương.

Tập thơ “Tiếng vọng suối ngàn”, lưu lại trong bạn đọc khá nhiều trang viết về thầy giáo và mái trường, nét đẹp thân thương của học sinh vùng cao biên giới, dù trải qua tháng năm xa cách nhưng tình nghĩa thầy trò vẫn thắm đượm, thuỷ chung như hương rừng, gió núi: Bằng lăng ơi đã hết những mùa trăng/ Tình học trò cháy trong mùa phượng vĩ/ Nắng chiều hôm lặng yên niềm suy nghĩ/ Ve sầu buông in dấu mỗi con tim.

Nỗi nhớ da diết trong thơ Trịnh Thoại thấp thoáng những kỷ niệm về mảnh đất Hoàng Liên Sơn, nơi ông gắn bó nửa cuộc đời cho nghề dạy chữ, ông đã từng có những năm tháng làm hiệu trưởng trường cấp III Lào Cai, bên dòng sông Hồng và núi: Hoàng Liên, mây gió mờ sương/ Hằn sâu nỗi nhớ tuổi thơ mái trường.

Sinh ra ở miền trung gió Lào, cát trắng, nhưng cuộc đời ông lại gắn bó với mảnh đất Lào Cai nơi đầu sông, đầu suối. Vì thế, nhiều địa danh thiên nhiên và phong cảnh núi rừng biên giới đã đi vào thơ ông với những phác họa khó quên: Phố Tèo soi bóng Nậm Thi/ Ngã ba sông đỏ nơi ga cuối chiều.

Đến Sa Pa ông gặp: Đêm Tả Van trở gió/ Bên cầu Mây bãi đá cổ chơ vơ/ Thác Bạc trắng rì rào trong nỗi nhớ/ Tiếng tháp chuông lay động Sa Pa. Ông đã đặt chân đến miền biên ải: Pha Long đồn rực cháy/ Dốc Chín Quai ngựa thồ. Và đã chứng kiến: Sao quên được trời Bảo Nhai nắng lửa/ Đàn ngựa thồ vang vọng núi non/ Mảng nứa dại vượt lũ tràn sông Chảy. Lào Cai trong ông, đọng biết bao kỷ niệm, có cả niềm vui và mất mát hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới. Hình ảnh liệt sĩ nhà báo Bùi Nguyên Khiết còn mãi trong thơ: Anh nằm lại Tả Ngải Chồ ngày ấy/ Rừng Pơ mu thay lá mấy mùa sương/ Trang viết dở đã phai dòng máu chảy.

Với thành phố Yên Bái, nơi cuộc đời ông đã dừng chân, kết tinh trong ông những kỷ niệm xa, gần, những phút giây phân vân cùng năm tháng: Nước mắt buồn hồ biếc cứ xanh trong/ Vòng quanh bờ nguyên sơ trong khoảng lặng/ Từ thẳm sâu ai nối mạch khơi dòng. Dừng chân bên hồ Cô Giang công viên Nguyễn Thái Học ông viết: Tên người đẹp mãi tên phường phố/ Tình người lan mãi sóng mênh mang.

Với Trịnh Thoại sau những bài thơ, những câu thơ viết về đất nước, con người, “Tiếng vọng suối ngàn” của ông ra đời khi ông tròn tuổi 85. Ở tuổi ấy, thơ ấy mới có nhiều chiêm nghiệm. Thật bất ngờ khi ông có những câu thơ dồn nén, chứa chất nỗi niềm trắc ẩn: Tôi tìm bóng phải đời tôi/ Giọt sương ngưng đọng bụi đời thoáng qua/ Ửng hồng sắc nắng kiêu sa/ Màu xanh ở lại sân ga cuối trời/ Tôi tìm bóng trái đời tôi/ Giữ hương đất mới sinh sôi nhựa hồng.

Gặp ông lần đầu, mới đọc thơ ông, nhìn vào đôi mắt trong sáng của ông, người ta dễ tưởng thơ ông luôn hướng ngoại nặng về kể và tả, nhưng đọc kỹ ông có những câu thơ trăn trở, nghĩ suy, đau đáu chuyện đời: Một mình chẳng phải một mình/ Khoảng sau đỉnh núi bồng bềnh mây bay/ Xanh rờn rủ bóng hàng cây/ Mây vờn thung lặng men say tấc lòng.

Thơ Trịnh Thoại có nhiều câu rất đa cảm: Dẫu đi qua cơn mưa hạ ướt mèm/ Ký ức nhỏ rối trong chiều khác lạ/ Đẫm mắt buồn phượng hồng chia xa. Trước thiên nhiên ông cũng dạt dào cảm xúc, tươi trẻ: Thênh thang trời Khau Phạ/ Ngắm dù bay nhẹ vòng/ Phập phồng theo hạt gió/ Nương đồi cũng lâng lâng.

Tập thơ “Tiếng vọng suối ngàn”, Trịnh Thoại có những câu thơ tinh tế mà sâu lắng, dịu dàng mà lay động: Nhìn trời qua lòng nước/ Đôi mắt cũng lung linh/ Ngắm nhau từ lòng suối/ Lớp rong che giấu mình. Ông có nhiều bài thơ viết về suối, bài nào cũng có những câu thơ gợi sự liên tưởng: Đếm sao được giọt suối/ Bởi cơn mưa đại ngàn. Hay: Suối ru em ngủ/ Rì rào rì rào/ Đâu có sóng vỗ/ Mà lòng xôn xao. Đến bài: Điệp khúc chiều thì dòng suối trong ông bỗng ray rứt thực sự: Suối mơ chiều khô cạn/ Sỏi đá phơi trắng dòng/ Gió ngàn cứ vần vũ/ Phiêu lãng đóa phù dung.

Tuổi càng cao ông càng có nhiều suy ngẫm, những lúc vui nhất thơ ông vẫn phảng phất nỗi buồn: Lờ lững thời gian bông gạo trắng/ Xạc xào bờ cỏ lá nghiêng rơi/ Rạo rực vào xuân trời ấm nắng/ Thấm giọt suơng thu lạnh lẽ đời.

Tuy vậy, tập thơ ra đời ở độ tuổi 80 đây đó vẫn còn có những bài, những câu thơ thô ráp, sáo mòn, ít chắt lọc, nhất là những bài phục vụ chính trị chưa tạo được hiệuứng vang ngân trong “Tiếng vọng suối ngàn”.

Thơ là tiếng lòng. Tiếng lòng trong thơ ông đồng vọng với thời gian, như suối ngàn chảy mãi. Lòng dạ tin yêu, mây chiều lặng gió, ngõ nhỏ thân quen, chuyện đời giản dị, luôn thắp sáng lên những vần thơ thao thức, hoài vọng qua mỗi cung bậc của tình yêu năm tháng, đợi chờ. Và ước mơ khát vọng còn mãi trong ông.

                                                                                                       N.C

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 66<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter