Người lính hôm qua, nghệ sĩ hôm nay

Hà Lâm Kỳ

Ngày đó, cuối những năm 60 của thế kỷ trước, trên văn đàn miền Bắc xuất hiện loạt tên tuổi chiến sĩ trẻ làm thơ, viết văn, sáng tác ca khúc, soạn nhạc không lời, rồi ký họa, rồi nhiếp ảnh, rồi quay phim, đóng phim, cho đến cả múa và hát... về nơi chiến trường Đông Dương, và nơi hậu phương miền Bắc đang khói lửa bom đạn Mỹ. Người dân, và những văn nghệ sĩ đàn anh gọi họ là “Văn nghệ sĩ chiến sĩ”, là “Văn công quân giải phóng”. Tôi còn đang là học sinh phổ thông cấp 3, nhưng được đọc và đã bị ám ảnh bởi những câu thơ cùng tác giả khiến mình thầm ngưỡng mộ. Phạm Tiến Duật viết về người lính lái xe Trường Sơn: Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến /Nôn nao ngồi dậy, nhớ lưng đèo. Nguyễn Đức Mậu: Xách súng công đồn, thành dũng sĩ/ Yêu đời cầm bút, hóa nhà thơ. Lúc này sinh viên các trường Đại học đã tràn ngập lời ca hai ca khúc: “Bài ca bên cánh võng” của nhạc sĩ Nguyên Nhung, và “Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp.

Cuối năm 1972, tôi về Trung đoàn 246 để đi B, thủ trưởng Khánh - người Thái Nguyên, vừa ở chiến trường ra nhận quân, đứng trước các chiến sĩ, Đại đội trưởng Khánh có đọc bài thơ, làm tôi nhập tâm nhớ loáng thoáng mấy câu: Rất nhiều vùng đất không tên / Rất nhiều dấu võng bỏ quên giữa rừng. Thì ra “Trường Sơn”, “Cánh Võng” mà lời ca đang làm rạo rực sinh viên là thế. Gần 20 năm sau, 1989, tôi mới được đọc đầy đủ bài thơ ấy, bài Lời riêng của lính từ sổ tay tác giả- nhà thơ Ngọc Bái (Nguyễn Ngọc Bái), chiến sĩ quân Giải phóng Mặt trận Khe Sanh. Lúc này anh đã đương kim Chủ tịch Hội Văn nghệ Hoàng Liên Sơn. Sau các cuộc chiến chống Mỹ, chống Pôn Pốt, và biên giới, Văn công Quân giải phóng không còn, thay thế vào đó là thương hiệu Văn nghệ sĩ Cựu chiến binh. Văn nghệ sĩ Cựu chiến binh  thuở Vệ quốc đoàn, mũ nan, chân đất. Văn nghệ sĩ Cựu chiến binh, ngày mũ tai bèo, dép cao su. Rồi văn nghệ sĩ Cựu chiến binh hôm nay- bóng hình biên giới và hải đảo. Rất có thể cuộc đời các anh chỉ khoác hai trong ba màu áo lính, nhưng chất nghệ sĩ trong con người họ vẫn không mờ phai: Khoảng trời bỏ ngỏ lặng im / Chỉ riêng dữ dội  quả tim trong người. Lời thơ mà tác giả Ngọc Bái viết từ 50 năm trước, hôm nay vẫn còn nóng với những Văn nghệ sĩ Cựu chiến binh.

 Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm cùng các văn nghệ sĩ tại buổi gặp mặt các văn nghệ sĩ một thời áo lính và Tọa đàm sáng tác VHNT về đề tài

"Lực lượng vũ trang và Chiến tranh Cách mạng trong giai đoạn hiện nay".

 

Hội viên Văn học Nghệ thuật Cựu chiến binh Yên Bái cái thời chiến sĩ Tây Bắc - Điện Biên, có lẽ không còn nhiều, bác Trịnh Thoại, bác Lê Ngân đã ngoại bát tuần. Lớp chiến sĩ giải phóng quân cũng đã thất thập. Sản phẩm xem văn nghệ của họ đã vào độ “chín”. Còn lớp tác giả cựu chiến binh Biên giới- Hải đảo, đang rất chững chạc trên cả hai phương diện, tuổi tác và tác phẩm. Anh trước em sau/ Lo toan gánh vác! Hai câu thơ đó của nhà thơ cách mạng Tố Hữu rất đúng với họ. Sự nghiệp phát triển Văn học- Nghệ thuật tỉnh nhà thế kỷ 20, 21 đang chờ đợi ở họ với vai trò tiếng nói Cựu chiến binh- Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật, và cả trọng trách phát hiện, bồi dưỡng lớp tác giả trẻ nối tiếp. 

Tôi may mắn được sinh hoạt cùng đồng nghiệp văn nghệ từ giữa những năm 80 ngày Văn nghệ Hoàng Liên Sơn nên ký ức về hàng chục bức tranh ký họa của Họa sĩ thương binh Quang Bộ, Họa sĩ thương binh Quách Hùng đem từ chiến trường về, giờ vẫn gây ấn tượng mạnh. Tôi cho rằng, đây là của “độc” còn lưu được. Đất nước thống nhất đã 40 năm mà tác giả của nó vẫn chưa có cơ hội công bố, quảng bá. Thật tiếc. Thật băn khoăn. Nhưng không sao. Các anh vẫn cứ vẽ, vẫn cứ tạc tượng. Tranh và tượng ấy, góp phần thúc đẩy đất nước đổi mới và hội nhập mà các họa sĩ đàn em thành tâm trân trọng, đàm đạo và chia sẻ. Tranh Trinh sát luồn sâu của Cựu chiến binh Trần Quanh Minh đoạt giải A, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái năm 2014, có thể không lấy cảm hứng từ chiến tranh chống Mỹ, mà chính từ trận chiến biên giới khi tác giả là người trong cuộc, để rồi góp vào mối nối nguồn mạch sáng tạo mỹ thuật giữa hai cuộc chiến tranh liên hoàn. Các tranh: Tín hiệu biển, Bảo vệ biển đảo của Cựu chiến binh, họa sĩ Nguyễn Đình Thi lại là sự bước tiếp với thông điệp mạnh mẽ: Giữ nước phải nhìn từ xa! Tác giả là hội viên duy nhất của hội đã đến với chiến sĩ đảo Trường Sa, đến với tiền tiêu đầu sóng, nghìn trùng và nóng bỏng. Nghĩ rằng, đề tài này, sẽ còn là cảm xúc lâu dài của tác giả, và của tất cả văn nghệ sĩ. Vùng đất Yên Bái, vùng đất trung du, Tây Bắc, có nhiều lợi thế cho loại hình nghệ thuật: Âm nhạc, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Biểu diễn. Nơi đó, văn nghệ sĩ cựu chiến binh vốn đã từng trải ở các chiến trường, thì hôm nay tiếp tục cầm chắc ống kính, cây đàn, giá vẽ lên với vùng cao, về với công trường, xí nghiệp, và vùng nông thôn, để rồi đưa hình ảnh quê hương ra cả nước, lan tỏa đến bầu bạn nước ngoài. Những tấm ảnh đặc sắc, đoạt giải Quốc gia của Cựu chiến binh - Hội viên Tuấn Nghĩa (Nguyễn Tuấn Nghĩa) như: Nhịp cầu hạnh phúc; của Cựu chiến binh- Hội viên Thanh Miền (Nguyễn Văn Miền): Vịnh Hạ Long trên núi, Gương trời, loạt ảnh về ruộng bậc thang Mù Cang Chải. Những ca khúc của Ngọc Bái, Đoàn Ngọc Bình, Quách Hùng. Điệu múa Tình Khau Cút của Cựu chiến binh, Cựu tù Côn Đảo, biên đạo Nguyễn Việt Hùng đoạt Huy chương Vàng Quốc gia. Rồi những tranh Đường về bản của Nguyễn Văn Sự, Nguyễn Thái Học ra pháp trường của Trần Quang Minh; Sau cơn lũ quét của Quang Bộ. Mỗi tác phẩm nghệ thuật, sức thông tin tưởng như vượt ra khỏi biên giới đất nước.

Văn học, thể loại chủ lực của văn nghệ. Hội viên- Cựu chiến binh của Hội, tự tin mà nói rằng, suốt ba cuộc chiến tranh, giờ đây là xây dựng đất nước, các tác giả văn học đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chung. Lê Ngân, Trịnh Thoại, Vũ Quang Trung, Ngọc Bái, Trần Cao Đàm, Hoàng Thế Sinh, Hoàng Việt Quân... những cái tên làm nên sản phẩm văn chương chiến tranh và cả thời hậu chiến. Cựu chiến binh quân tình nguyện Trần Cao Đàm ngày còn là phóng viên Đoàn 766 chiến trường Lào, anh đã viết bút ký Một chiến công nói về Đại đội trưởng Dương Toàn Thắng, chiến sĩ đặc công, người có sáng kiến đưa lực lượng nhỏ vào đánh theo kiểu “mật tập” tạo thắng lợi quyết định cho trận chiến. Bài ký đăng trên báo Quân khu Tây Bắc năm 1969. Trần Cao Đàm nuôi dưỡng cảm hứng đó để sau này anh cho ra đời tiểu thuyết Pa Thí mù sương, và những tiểu thuyết về đề tài chiến tranh khác. Hoàng Thế Sinh, thương binh 4/4 (loại A), anh là lính Trung đoàn 165 của Tướng Nguyễn Chuông, từng kịch chiến tại Cánh Đồng Chum- Xiêng Khoảng năm 1972. Cái chết quả cảm của chiến sĩ Cổ Tân Chước người Bảo Yên, làm Hoàng Thế Sinh canh cánh đằng đẵng. Hơn 40 năm, anh viết truyện ký Chước ơi, về nhà thôi! như thể đã thắp được nén tâm nhang cho đồng đội đang ở tận nơi chân trời. Truyện ký in trên Tạp chí Văn nghệ Yên Bái gây xúc động mạnh cho bạn đọc. Hậu chiến, Hoàng Thế Sinh trở thành Nhà văn Việt Nam với cả khối tác phẩm: Truyện ngắn, truyện ký, bút ký, thơ. Hơn thế, anh là “cây” tiểu thuyết văn học Việt Nam hiện đại khai thác các vấn đề đương thời, ít ai theo nổi. Cựu chiến binh Hoàng Việt Quân cũng là trường hợp hiếm gặp. Tuổi bẩy mươi, anh vẫn lạc quan bên hàng giá tư liệu văn nghệ tự mình sưu tầm, tích cóp chỉ mong góp cho văn học nghệ thuật sự đầy đủ, sự chu tất và nhân văn. Nơi căn nhà đơn sơ và cuộc sống đơn phương, Hoàng Việt Quân có sản phẩm lao động sáng tạo nghệ thuật với trên 40 đầu sách. Một cựu chiến binh nghệ sĩ như thế, thật đáng được ghi danh. 

Tôi có một kỷ niệm nhỏ, hôm nay, muốn bộc bạch cùng đồng đội. Ấy là tháng 8 năm 1974, tôi làm Quân y ở cục Hậu cần Binh đoàn Tây Nguyên (Sau này là Quân đoàn 3), được thủ trưởng cử đi học lớp bồi dưỡng Thông tin viên đặt tại một điểm bên bờ sông Sa Thầy. Lớp do Tổng Biên tập Báo Tây Nguyên Nguyễn Khắc Quán trực tiếp phụ trách. Thầy giáo là Nguyễn Văn Công, biên tập viên (ra quân, anh về Báo Hoàng Liên Sơn, nay nghỉ hưu tại phường Đồng Tâm, thành phố Yên Bái). Lớp học kết thúc sớm hơn kế hoạch, tôi nộp bài, và gửi luôn bài thơ nhỏ kiểu như ca dao, bài Vào mùa: Mùa mưa, hai đứa hai nơi/ Mùa khô, hai đứa hai trời xa nhau/ Vào mùa, cùng một ước ao/ Được đi chiến dịch, được vào tung thâm. Bài thơ đăng trên trang 3, kết quả lớp thông tin viên. Tháng 2 năm 1975, tôi bất ngờ được đọc lại bài thơ mình viết đăng trên trang nhất, vẫn tờ Tây Nguyên. Tên bài "Vào mùa" đã được đổi thành "Ước ao". Sau giải phóng, Nhà văn Khuất Quang Thụy (khi đó ở Cục Chính trị Binh đoàn) kể, Tổng Biên tập Nguyễn Khắc Quán nói rằng bài thơ vô tình bộc lộ thông điệp đánh lớn. Nếu để tiêu đề Vào mùa, dễ bị địch phán đoán, còn Ước ao, thì chỉ là tâm lý cá nhân chiến sĩ. Tôi nào có biết chiến dịch gì đâu, chỉ viết vu vơ tặng đồng đội Võ Xuân Hiếu đang ở F320 thôi mà. Nhưng khi nghe phân tích, tôi cũng hú vía. Sau này, khi là hội viên văn nghệ, tôi luôn tự nghĩ, văn chương, cũng phải thận trọng nhiều chiều.

Đồng hành với đồng đội hôm qua và hôm nay là các Cựu chiến binh- Hội viên: Nguyễn Ngọc Chấn (bút danh Ngọc Chấn), Binh chủng tăng- thiết giáp; là Hoàng Tương Lai, Quân tình nguyện Việt- Lào; là Đoàn Đức Bình, Binh chủng tên lửa- phòng không không quân; là Nguyễn Hiền Lương nơi mặt trận Trường Sơn Đông; là thương binh Đặng Ngọc Thông lính chiến Tây Nguyên; là Nguyễn Đăng Lộc sĩ quan quân chủng Hải quân… Thật đa dạng. Chiến tranh tự sắp đặt người lính vệ quốc vào vị trí, sự sắp đặt ấy ngẫu nhiên trao cho họ vốn sống, bồi bổ cảm xúc để làm nên sắc màu nghệ thuật, đóng góp với nền văn hóa nước nhà.

Cựu chiến binh- một thương hiệu. Văn nghệ sĩ- một thương hiệu. Người lính hôm qua, nghệ sĩ hôm nay, được vinh dự lưu danh cả hai. “Nhớ lời Di chúc, theo chân Bác(1), nghĩ rằng, đồng đội, đồng nghiệp sẽ tiếp tục làm, và làm được bổn phận của mỗi người, những Cựu chiến binh- Hội viên Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Yên Bái.

H.L.K

 

 

([1]) Thơ Tố hữu

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 66<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter