Nhớ Nhà văn Hoàng Hạc

 Nhớ Nhà văn Hoàng Hạc

                                                HOÀNG THẾ SINH

 

Tháng năm, tu hú kêu, vải đỏ chín trùm cây.

Tôi nghe tu hú kêu, thấy vải chín thì bỗng nhớ nhà văn Hoàng Hạc.

Thực lòng, tôi nhớ nhà văn Hoàng Hạc như nhớ một người anh, một người chú, một người thầy. Nhớ mãi, những năm Tám mươi của thế kỷ Hai mươi, tôi làm nghề dạy học ở thị xã Yên Bái, cũng hí hoáy viết truyện, làm thơ, nên hay giao du với các văn nghệ sĩ, đến mức thân mến, nên tôi gọi anh Hoàng Hạc.

     Ngày ấy, cái gian phòng tập thể chừng 6m2, một chiều mùa hè, Hoàng Hạc rải chiếc chiếu cói nhỏ xuống nền gạch bát nâu, rồi lại rải tờ báo văn nghệ vào giữa chiếu, rồi đặt ngay ngắn chai 65 rượu trắng bên cạnh, tất bật bày biện lên tờ báo mấy gói lạc húng lìu, vài quả ổi ương, mấy lát chuối xanh, cả một chùm vải chín đỏ mà Hoàng Hạc mang từ quê ra nữa. Ây dà, rõ là một bữa tiệc, chẳng kém chi anh Chí Phèo làng Vũ Đại, còn hơn hẳn anh Chí cái khoản lạc húng lừu và chùm vải chín đỏ kia nhé. Tôi và Hoàng Hạc đang chén chú chén anh thì nghe bên phòng hành chính có tiếng điện thoại reo vang, Hoàng Hạc đặt chén rượu xuống chiếu, đi vội sang nghe điện thoại. Một lúc, Hoàng Hạc về, ngồi khoanh chân, cầm chén rượu cạch với tôi, cạn, rồi ngồi ngây, ngẩng mặt, đưa mắt hướng về nơi xa xăm. Thấy lạ, tôi hỏi có việc gì quan trọng? Hoàng Hạc không nói gì, tay cầm chai rượu, rót thêm vào mỗi chén một chút, lại cạch, hết. Khà khà! Bỗng Hoàng Hạc bật cười, cười chảy nước mắt, rồi chậm rãi nói: "Lão Mã đi họp Hà Nội, cưỡi chiếc Rumani, về đến Việt Trì thì Rumani vừa đi vừa đẩy, sướng đời Mã nhé!". A, thì ra Hoàng Hạc nghe điện thoại của nhà văn Mã A Lềnh- Phó Chủ tịch hội, báo cáo về việc cái Rumani chết máy, nên không về được. Hoàng Hạc bảo, quan trọng đếch gì mà phải báo cáo chứ? Tớ thỉnh thoảng cưỡi cái Rumani đi họp hành, thì nó cũng hành tớ, thỉnh thoảng chết giấc một hồi, còn lạ gì nữa. Ờ, Mã ơi, giá có con ngựa cưỡi còn sướng hơn nhỉ? Mã cưỡi ngựa mà xuống chơi với Long Vương, mà về Kinh Đô chơi với bạn văn chương còn nhanh hơn là cưỡi cái Rumani cà khổ kia, có phải thế không? Khề khà một hồi, tay nâng nâng chỏm mũ nồi, Hoàng Hạc im lặng, một lúc, rồi bỗng cất tiếng hát bằng tiếng Tày à ới, véo von, trầm bổng. Khi Hoàng Hạc dừng hát, tôi ngồi ớ ra, miệng lẩm bẩm, ơ, hát gì mà hay thế, cứ như chim hót ríu ran sớm mai, cứ rì rào như suối chảy, cứ như gió cuốn mây bay trùng trùng núi núi, cứ như thú kêu gọi đàn giữa rừng già mênh mông. Tôi khen: "Anh hát tiếng Tày, nghe hay quá, nhưng em chẳng hiểu gì cả!". Hoàng Hạc nâng chén rượu cạch với tôi, một ngụm nhỏ, rồi bảo: "Tớ cọi ấy mà. Dân ca Tày đệ nhất nước Nam đấy. Tớ cọi một bài tình yêu gửi gió đưa về Việt Trì tặng cho nhà văn họ Mã mau nổ máy được cái Rumani mà về Yên Bái, chứ mạn xuôi ấy là nhiều gái đẹp lắm, chàng Mã mê tít thì khó mà dứt, khà khà!". Tôi cười, và hỏi: "Nhưng bài cọi ý gì chứ?". Hoàng Hạc không nói gì, ngước kính trắng nhìn về xa xăm. Tôi thoáng cảm nhận như Hoàng Hạc đang nhớ về cái thời xa xưa trai trẻ đêm trăng rủ bạn thót vào bản hát tán gái chứ chẳng phải hát gửi gió cho Mã A Lềnh đâu. Một lúc, tôi tự cạn chén, đưa ngón tay vuốt ria, nài nỉ: "Hoàng Hạc ơi! Anh cho em chép lại bài cọi cả tiếng Tày và lời dịch ra tiếng Kinh nhé. Em cũng sẽ cọi tán gái Tày, cho sướng!", "Khà khà!- Hoàng Hạc đưa ngón tay nâng nâng kính trắng cao lên mũi, ngó tận mặt tôi, giọng vui- Ây dà! Mai anh sẽ cho chú mày chép hết, rồi tập hát nhé. Có nhẽ chú mày phải ăn hết cả một lều nương đầy cum lúa kén thì mới cọi được đấy. Cọi được thì thích lắm! Gắng lên nhé!". Ôi giời, nói được câu ấy, Hoàng Hạc cười thoải mái, hồn nhiên, khoái chá. Tôi hiểu ý Hoàng Hạc vì tôi từng sống với người Tày gần cả đời rồi, nên tôi cũng cười tít tít. Tôi hứng khởi, cạn hẳn chén rượu, hì hì. Hoàng Hạc cũng cạn chén, cười tít mít. Tôi biết, tính Hoàng Hạc là thế. Ở cái thời quan liêu bao cấp, cả nước đói khổ, chứ chẳng riêng gì cơ quan văn nghệ đương trong thời kỳ vận động thành lập. Cái thời đói khổ thế mà còn biết bao nhiêu chuyện vui buồn nhân tình thế thái. Con người tự nhiên nảy thói hư tật xấu là việc gì cũng tranh nhau, người người tranh nhau xếp hàng mua lương thực, thực phẩm, tranh nhau lên tầu xe, tranh nhau hàng phân phối cá khô, mắm tôm, nước mắm, ma-ri, áo may ô, xích líp, xăm lốp xe đạp, kim khâu, đá lửa..., lại còn tranh nhau khen thưởng, tăng lương, tranh nhau cả mấy cái chức còm từ tổ phó, tổ trưởng, trưởng phòng, phó phòng, ủy viên thường trực, vân vân. Xung quanh cái hội văn nghệ đang manh nha thành lập cũng vậy, nhưng Hoàng Hạc không hề hấn gì, không mảy may bận lòng. Và Hoàng Hạc cứ tận tụy, làm việc hết trách nhiệm dù giữ chức vụ Ủy viên Thường trực, Phó Chủ tịch, rồi Chủ tịch Hội. Cùng đó, Hoàng Hạc cứ âm thầm, mải miết viết cả ngàn trang văn thật văn đẹp về quê hương bản quán mình, cứ rủ rỉ rù rì kin lẩu (uống rượu) chai trắng nút lá chuối cùng bạn văn chương với chuối xanh, ổi xanh, lạc rang húng lừu, cứ sống hồn nhiên, nhân hậu như cội nguồn người tộc Tày từng sống vậy. Nói đến văn chương, tôi bái phục Hoàng Hạc đức tính cần mẫn, vô cùng cầu thị và có trách nhiệm với từng con chữ, với từng chi tiết hiện thực đời sống. Tôi từng đọc Hoàng Hạc qua các trang viết đây đó trên báo và tạp chí văn nghệ, rồi đọc mấy lần Hoàng Hạc- Tuyển tập văn xuôi (Nxb Văn hóa Dân tộc, 1998), phát khiếp vì thái độ lao động của nhà văn tiền bối. Thì đấy, truyện Ké Nàm, viết năm 1963, chữa lại năm 1971, những 8 năm mới ổn. Chỗ ngoặt của một đoạn đường, Mùa thu 1984, Mùa thu 1987, những 3 năm. Nơi ấy những kỷ niệm, Yên Bái 11/1986 và Đại Lải 11/1987, những 2 năm. Xứ lạ mường trên, Yên Bái 1977 và Mỹ Lâm 1984-1985 và Yên Bái thu đông 1986, những 9 năm. Sông Gọi, Thác Bà 1965 và Quảng Bá 1968 và Đà Lạt 1982, những 17 năm. Còn nữa. Nội dung các truyện ngắn, truyện ký và bút ký của Hoàng Hạc, thì khỏi nói, nó chân thật đến tận cùng chân thật, như các nhà lý luận phê bình văn học bây giờ gọi là văn học phi hư cấu ấy mà. Vẫn biết hư cấu mới là sứ mạngquyền năng tối thượng của mỗi nhà văn để có thể xây dựng nên những hình tượng nhân vật có tính khái quát cao mang tầm thời đại và tầm nhân loại, nhưng có những nhà văn, bằng thiên bẩm và sức sáng tạo lạ thường thì vẫn có thể viết những tác phẩm với phong cách phi hư cấu mà vẫn xây dựng nên những nhân vật điển hình bất hủ, viết nên những áng văn đẹp làm lay động lòng người. Với Hoàng Hạc, sự chân thật trong bút pháp phi hư cấu đã tạo nên những trang văn thật văn đẹp, làm lay động lòng người. Không kể Khảm hải, Then bách điểu là tác phẩm sưu tầm, biên dịch, và bên cạnh những bút ký mang đậm nét văn thật văn đẹp, như: Bắc Hà đêm nay, Gương ngọc chân núi, Trận mưa rào tháng hai, Biển cá vào xuân, Thao thức vùng biên, vân vân, tôi đặc biệt chú ý cái bộ ba truyện ký của Hoàng Hạc, là Ké Nàm, Xứ lạ mường trênSông gọi.

Như trong Ké Nàm, một lão nông nghĩ khôn, cái ngày chuyển cư nhường đất quê hương bản quán cho thủy điện Thác Bà, định bỏ dân bản ngấm ngầm sang Tuyên Quang nhờ vả người thân để xin đất ở, đất làm ruộng, rồi chuyển nhà sang đấy chắc ăn, cho đỡ vất vả. Nhưng rồi, một lần đến thăm con gái cùng thanh niên bản xung phong đi xây dựng quê mới, ké Nàm thấy quê mới sao mà đẹp, cũng có đất làm nhà, cũng có ruộng cấy lúa, cũng có nương trồng ngô, sắn, lại được con gái khích là lão bỏ bản, bỏ hàng xóm láng giềng, chỉ biết lo cho mình, khiến lão nghĩ ngợi rất nhiều về cái tình dân bản từng cả đời tối lửa tắt đèn có nhau. Về nhà, gặp vợ bên bờ ao, mắt lão không rời đàn cá đang bơi, nói bải ra: "Thương hại nó, ta để tất lại thôi. Mai kia chỗ này thành biển, nó tha hồ quẫy đuôi từ đây xuống Thác Bà rồi lại lên..."! Ké Nàm điển hình cho loại nhân vật lão nông miền núi biết nghĩ khôn cho mình, nghĩ tư lợi, nhưng rồi vì tình thân với dân bản mà biết nghĩ lại, theo cái đẹp của tình người, theo cái mới của cuộc sống quần tụ dân dã.

Như trong Sông gọi, những nhân vật nổi bật khiến bạn đọc nhớ mãi là Bí thư huyện ủy Phượng, Chủ tịch huyện Thăng, cha cố Đồng, những người gánh trách nhiệm nặng nề nhất, lo toan nhiều nhất, phải giải quyết những việc phức tạp, rắc rối, khó khăn nhất trong việc tuyên truyền, vận động và đưa dân di cư khỏi quê hương bản quán đến quê mới ở Lục Yên, Trấn Yên, Văn Yên. Công việc chuyển cư nhường đất cho Nhà máy thủy điện Thác Bà- đứa con thủy điện đầu lòng của Chủ nghĩa xã hội, là một công việc khổng lồ, khổng lồ về tư tưởng, tình cảm, khổng lồ về lao động chân tay, lao động cơ giới. Việc di dân đã vất vả, nhưng việc di dời nhà thờ, chùa chiền, miếu mạo, mồ mả cha ông còn vất vả hơn nhiều. Nên nhớ rằng, bốc khỏi lòng hồ Thác Bà- nơi cả ngàn héc-ta được gọi "bờ xôi ruộng mật" cùng với nền văn hóa ngàn năm của người Kinh, người Tày, người Dao, người Nùng huyện Yên Bình, là hơn 5 vạn dân, hơn 3 vạn mồ mả cha ông, dòng tộc, 40 đền thờ miếu mạo, 30 nhà thờ Chúa, thời gian di dời kéo dài gần mười năm đằng đẵng. Vô cùng mệt mỏi và tốn kém! Kết quả là, Nhà máy thủy điện Thác Bà mọc lên sừng sững như một chàng tráng sĩ khổng lồ dang hai cánh tay lực lưỡng nối núi Cao Biền với núi Hoàng Thy, và các dòng thủy sinh thuộc lưu vực sông Chảy đã tụ về làm nên biển hồ xanh biếc mênh mông, với 1.300 hòn đảo xinh đẹp, và biển hồ xối dòng nước xanh biếc xuống các tua-bin mà làm ra 120 MW cho điện sáng bừng cả miền Bắc Xã hội chủ nghĩa. Thật là vĩ đại! Thật là kỳ diệu! Một người dân thường sinh ra, lớn lên, rồi theo cách mạng, rồi làm cán bộ văn hóa, làm cán bộ văn nghệ, một nhà văn tiền bối như Hoàng Hạc làm sao không hết lòng cổ xúy cho công trình thủy điện vô cùng quan trọng mang tầm thế kỷ kia chứ! Thực sự, nhà văn Hoàng Hạc đã có công lao to lớn khắc ghi vào lịch sử văn học Việt Nam hiện đại những trang văn hết sức chân thật, cảm động và hào hùng về một công cuộc lao động sáng tạo và đức hy sinh vô cùng to lớn của tất thảy nhân dân các dân tộc huyện Yên Bình và những công nhân, kỹ sư Việt Nam- Liên Xô, những người tiên phong làm thủy điện vì quốc kế dân sinh tiến bộ của Chủ nghĩa xã hội.

Nói đến văn chương, tôi không thể không nói dài một tí về Xứ lạ mường trên của Hoàng Hạc. Theo tôi thì, Xứ lạ mường trên thể hiện được sự chân thực độc đáo, mang nét rất riêng của văn Hoàng Hạc. Nét rất riêng văn Hoàng Hạc là ở cái nhìn trực cảm, sử dụng ngôn ngữ giản dị, giầu hình ảnh, cách diễn đạt đậm chất Tày. Hãy nhớ lại chuyện Chậu nước tắm ngày sinh con, cái chuyện tự cắt rốn, rồi tắm cho con mới sinh trong cái chậu sành, mà tắm bằng nước suối núi Ngàng trong lành hòa với muối mặn biển cả, mặc cho con khóc thật to, để cho con hít thở khí trời rừng núi, như thế, mai ngày con sẽ lớn lên cường tráng, thì thật là chỉ có chuyện sinh nở xửa xưa theo kiểu hoang dã, dân dã, chỉ dân gian mới thế. Chuyện cứ như thần thoại ấy. Còn ngày Ra tháng của trẻ thì, các lễ vật được bày trang trọng trên bàn thờ tổ tiên... "Giờ đây, cặp bánh dày màu hồng kia là tấm ngực hồng của mẹ. Hai chiếc bánh dày nửa trắng nửa đỏ là hai bầu vú căng sữa của mẹ. Hai nửa quả trứng đặt úp lên cặp bánh dày kia là hai núm vú phơi trần của mẹ". Nhà văn kể tên các lễ vật cúng tế ngày "Ra tháng" của trẻ vừa rất thật, vừa quê kiểng, rất gần gũi với đời sống thường nhật, nhưng vô cùng ý nghĩa ở chỗ, lễ vật bánh dày kia tượng trưng cho ngực hồng của mẹ, là hai bầu vú căng sữa của mẹ, là hai núm vú phơi trần của mẹ, toàn những thứ dành để nuôi con lớn lên từng ngày mà thành người, cũng là cách dạy trẻ biết ơn cha mẹ sinh thành. Rồi Đêm hội cốm, trăng vẫn thênh thang trên bầu trời trong kia, thì những lời hát mời với giọng thanh thanh đầy quyến rũ, cất lên: "Mời cô nàng thướt tha/ Ơ mời cô nàng Sọt, nàng Trăng/ Xuống khua máng gỗ vác/ Xuống gõ nhạc chày chủ/ Xuống chơi bạn tình nơi thế gian... Và rồi, vang lên tiếng chày "kum, kum, kum" nện vào thành máng, báo hiệu bắt đầu một bản nhạc gõ Keéng loỏng... Dưới ngòi bút "phù thủy" của nhà văn thì, điệu chày Kéng loỏng như gợi nên "thấp thoáng đâu đó cảnh chiều tà mùa đông nắng vàng rực rỡ tràn trên những thửa ruộng bậc thang la liệt gốc rạ. Thấp thoáng trong cảnh ấy, những bàn chân nhảy nhót đan lấy nhau. Những tà áo tung bay như những cánh bướm sặc sỡ. Hàng ngàn trống cái, trống con bập bùng ngân xa"... Phải nói, nhà văn Hoàng Hạc tả cái cảnh giã cốm đêm trăng trên nhà sàn bản Tày thậtđẹp đến nỗi ta như nhìn thấy nghe thấy tận mắt và cảm nhận như đang hòa với cánh nam thanh nữ tú bản làng cùng giã cốm, cảm giác mê vui. Những cảnh sinh hoạt đậm chất dân gian Tày như thế không phải hiếm trong văn Hoàng Hạc. Như thế, mới thấy Hoàng Hạc yêu thương con người bản mình, yêu bản mình, yêu quê núi của mình nhiều lắm. Thì chính Hoàng Hạc- nhân vật "tôi" trong Xứ lạ mường trên, đã được sinh ra dưới chân núi Ngàng, được tắm nước nguồn suối Ngàng trong mát pha lẫn muối mặn biển cả, lớn lên, được cha mẹ cho đi học chữ Nho, tự học chữ Quốc ngữ, lại được cha truyền dạy cho những câu dân ca khắp, cọi, quan làng, luyện cho Khảm hải (Vượt biển)- một trường ca của dân tộc Tày với hình thức diễn xướng thâu đêm, là "hất pụt" cùng với bộ nhạc gỗ và nhạc dây cổ sơ gắn liền với tín ngưỡng dân gian và những tưởng tượng huyền ảo về thế giới thần linh xửa xưa, Khảm hải cuồng nhiệt, trữ tình và bi tráng. Hoàng Hạc lớn lên, từng chứng kiến bao nhiêu chuyện vui buồn, tắm mình trong bao nhiêu nét riêng độc đáo và đẹp của phong tục tập quán Tày, gắn bó thân thương, cùng với bao nhiêu chuyện biến đổi thời cuộc ở bản mình, ở quê hương mình. Tất tật đã được Hoàng Hạc chuyển vào tác phẩm của mình với một tình cảm sâu nặng vô cùng. Dù không được "tẩm ướp lí luận văn học" gì ráo, nhưng những trang văn của Hoàng Hạc thấm đẫm hiện thực và nhân văn. Theo đòi Hoàng Hạc, tôi cũng là người chỉ tôn thờ hiện thực và nhân văn mà thôi. Vậy nên, Hoàng Hạc đã là người thầy văn chương của tôi rồi! Lan man mãi, tôi lại nhớ cái ngày xa kia, nhà thơ Hà Phạm Phú với tư cách Giám đốc Hãng phim Hội Nhà văn Việt Nam, cùng với em Chính, em Thiệu là biên tập viên Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, tôi nữa, chạy thuyền máy xuyên lòng hồ Thác Bà đến Xuân Lai để làm phim tài liệu về nhà văn Hoàng Hạc. Cảm động lắm khi chúng tôi đặt chân lên cầu thang ngôi nhà sàn gỗ mái lá xôn xao gió rừng và ríu rít tiếng chim hót, lại thoảng mùi hoa rừng đâu đây nữa. Và chợt buồn, khi chúng tôi thấy Hoàng Hạc không còn nhìn được nữa. Ngồi bên chiếc bàn con kia, Hoàng Hạc gy nhỏ, giản dị áo sơ-mi, vẫn chiếc mũ nồi đen tí núm, mắt nhắm, miệng mím mím, một tay giữ chiếc thước kẻ đặt ngang cuốn vở, một tay cầm bút bi viết run run, chữ lên chữ xuống như đồi như núi, như ruộng bậc thang ở cái bản mình vậy. Giời ạ! Vẫn một Hoàng Hạc âm thầm viết, lặng lẽ viết, mải miết viết, cho đến tận bao giờ chứ! Mà vẫn viết những trang văn thật văn đẹp như xửa xưa vẫn thế. Ôi, thương lắm, nhà văn Hoàng Hạc ơi! Mà Hoàng Hạc cũng chẳng còn biết cái phim tài liệu của bạn văn Hà Phạm Phú cùng em Chính, em Thiệu làm thế nào nữa, chắc là hay lắm, Hoàng Hạc xin tạ ơn và chỉ ghi nhớ trong lòng thôi. Ây dà, nhân nhắc chuyện cũ, tôi lại nhớ, ngày Rằm tháng Giêng năm nào, bạn văn nghệ sĩ Chi hội Văn học Nghệ thuật Dân tộc thiểu số Yên Bái vượt gần trăm cây số đường quanh hồ Thác Bà, đến thăm hội viên Hoàng Tương Lai. Anh chị em văn nghệ sĩ đương mải chuyện trò, ngắm nghía phong cảnh quê hương Xuân Lai, thì tôi gọi riêng Tương Lai đến bên bàn thờ, nói nhỏ với Lai mấy điều, Lai gật đầu, rồi tôi đặt phong bì tiền lên đĩa hoa quả và thắp hương, hai tay chắp trước ngực, nhắm mắt, thành tâm, rì rầm khấn: "Thưa nhà văn Hoàng Hạc! Hôm nay ngày lành tháng tốt, em là nhà văn Hoàng Thế Sinh, thắp nén hương thơm tưởng nhớ anh, chúc anh nơi vĩnh hằng an lành và không quên viết văn nhé. Thưa anh, em với thằng Lai cùng lính chiến đấu ở Cánh Đồng Chum, Lào đã kết bạn tồng, nên từ hôm nay em xin phép chính thức được gọi Hoàng Hạc bằng chú. Vâng, cháu thưa chú Hoàng Hạc yêu quí!"... Tôi cúi đầu, vái ba vái, nước mắt chan hòa. Một lúc, trở ra, tôi đã thấy cỗ bày khắp dưới sàn, trên sàn, cùng nhiều hoa quả, đồ cúng tế, có cả một đội đẹp trai vừa hát vừa nhạc nữa. Tôi hơi ngạc nhiên, thì Lai bảo, đầu năm mới, theo phong tục cổ tuyền người Tày, hôm nay nhà Lai làm cỗ cúng mừng năm mới, cúng giải hạn, cúng cầu lộc, cầu may, cầu phúc. Nhà sàn chật người, chật cả tiếng nói, tiếng cười, tiếng nhạc, tiếng cầu khấn. Các bạn văn nghệ sĩ đang mải xem cúng thì nhà văn Hà Lâm Kỳ bấm tay tôi, nháy mắt, rồi kéo tôi xuống cầu thang, đi ra sau nhà. Hai chúng tôi rẽ cỏ, bước vào ven đồi. Nhà văn Hà Lâm Kỳ chỉ nấm mồ Hoàng Hạc. Nấm mồ lùm lùm giữa đám cỏ xanh rì, phía trên là rừng xanh ngút ngát. Thật mát mẻ! Hai chúng tôi cùng thắp hương, khấn vái. Không biết Kỳ khấn gì, còn tôi, trước vong linh nhà văn tiền bối mà tôi ngưỡng mộ, yêu quí, khấn gì đây, thôi thì, tôi cọi vậy, tôi cọi cái bài Lai dạy tôi ngày ở Nhà sáng tác Nha Trang năm xưa, bài cọi nói về mùa xuân trăm hoa đua nở, xin dâng tặng người xửa xưa. Tôi thì thầm: À à à ơi ơi ơi ời ời ời.../ Pí pền cần tàng quây mà lót/ Lại chầm thâng suôn bioóc bách va/ Lọi lọi rùng mà tha hom tỏa/ Bách thức bioóc va quả phông ban/ Bioóc nghè cắp bioóc cam rùng cáng/ Bioóc mặn phông soong háng tin suông/ Bioóc tào rùng tỏn xuân pí mấư/ Bioóc chanh phông tẩư nạu bioóc nghè*...

Gió rừng thoảng hương thơm,

thì thầm hoa lá,

rưng rưng búp non tơ,

bóng ai thấp thoáng sương mờ núi,

Chứ lai,** nhà văn Hoàng Hạc ơi!

 

                                                                             H.T.S

 

-------------------

(*) À à à ơi ơi ơi ời ời ời.../ Anh là người cách dặm đường xa/ Mừng vườn trăm thứ hoa đua nở/ Mọi thứ hoa hương tỏa ngát thơm/ Hoa cùng quả trong vườn vô số/ Quýt cùng cam hoa nở đầy cành/ Góc vườn trắng mỏng manh hoa mận/ Hoa đào tươi thắm nụ đón xuân/ Hoa chanh nở dưới gần hoa quýt/...   

(**) Nhớ lắm.

 

 

 

 

 

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 66<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter