Nỗi niềm "Hoa ban trắng"

THẾ QUYNH

 

 

 

Truyền thuyết của dân tộc Thái Tây Bắc kể rằng: Ngày xưa, ở một bản nọ có một cô gái tên Ban. Nàng xinh đẹp, nết na và có giọng hát mê đắm lòng người. Nhiều trai mường ngấp nghé song trái tim nàng đã trao gửi cho chàng Khum, một thanh niên giỏi săn bắn và làm nương. Nhưng cha Ban chê Khum nghèo nên đã gả cô cho con trai Tạo Mường, vừa gù vừa lười. Thấy cha cùng nhà Tạo Mường bàn chuyện cưới hỏi, nàng Ban chạy đến người yêu cầu cứu lại đúng lúc chàng Khum đi xa. Tuyệt vọng, nàng Ban bèn buộc chiếc khăn piêu của mình vào cầu thang nhà Khum rồi vượt núi, vượt đèo tìm chàng. Cuối cùng kiệt sức, nàng gục xuống chết. Nơi đó sau này mọc lên một loài cây ra hoa trắng muốt, hương thơm dịu vào mùa xuân. Dân Mường gọi là hoa Ban và coi đó là loài hoa tượng trưng cho tình yêu chung thuỷ. Còn chàng Khum trở về, thấy nàng đã bỏ đi bèn theo tìm. Cuối cùng chàng cũng kiệt sức mà chết hoá thành con chim sống lẻ loi. Cứ đến mùa xuân, khi hoa Ban nở chim lại cất tiếng gọi bạn tình da diết. Thế nên mỗi độ xuân về, người Thái lại tổ chức Lễ hội Hoa Ban như một sự khắc ghi về ý nghĩa tình yêu đôi lứa và mong cầu những điều tốt đẹp sẽ đến trong cuộc sống. Vào dịp đó, trai gái bản lại rủ nhau đi hội chơi núi bày tỏ tình yêu đôi lứa, mong muốn có được mối tình chung thuỷ như cặp Ban- Khum.

Cũng từ lâu, hoa Ban đã trở thành đề tài gợi cảm hứng sáng tạo cho nhiều nhà thơ, nhà văn khi viết về miền quê Tây Bắc. Với nhà thơ Ngọc Bái, loài hoa này luôn là nguồn thi cảm giàu năng lượng để cho ra đời những thi phẩm hay. “Hoa ban trắng” là một trong những bài thơ đó:

Hoa ban trắng nói gì hoa ban trắng

Nghe rưng rưng dòng nhựa trong cây

Hoa ban nở một khoảng trời thầm lặng

Có mảnh hồn em cất giấu ở nơi này

 

Hoa ban trắng cứ lặng thầm mà trắng

Cánh mong manh canh cánh trong mơ

Những đêm vắng giữa thênh thang đồng nội

Có bóng em thổn thức dưới sương mờ

 

Phía trời Tây cây từ độ hoang sơ

Cánh hoa trắng nhỏ nhoi xao động

Một khoảng nhớ chứa chan màu nắng

Cất vào thơ trinh trắng nẻo đơn côi

Cảm xúc bắt đầu từ một buổi chiều bất chợt gặp nhành ban trắng Mênh mang chiều ơi một nhành ban”. Hơn một lần, đã từng bần thần trước phận hoa “đến kỳ thì nở trắng/ rồi lặng lặng tàn phai”. Nhưng hoa ban trắng chiều nay dường như đang trở thành bạn tâm giao “Hoa ban trắng nói gì hoa ban trắng”. Mượn hoa để giãi bày nỗi niềm, bộc lộ cảm xúc trước mênh mang cuộc đời vốn không phải chuyện hiếm trong văn chương. Thời nhà Lý, Mãn Giác thiền sư trong bài “Cáo tật thị chúng” (Có bệnh bảo mọi người) từng viết “Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước nở nhành mai”; Nguyễn Du- thi hào dân tộc tả tâm trạng buồn của chàng Kim khi tìm về vườn Thúy “Trước sân nào thấy bóng người/ Hoa đào năm ngoái còn cười gió Đông”… Trước hoa Ban, nhà thơ ngắm và lắng tự trong trái tim mình để rung cảm mà bắt nhịp được cái “rưng rưng dòng nhựa trong cây”. Hoa đâu chỉ là hoa bởi “Có mảnh hồn em cất giấu ở nơi này”. Đọc đến đây tôi chợt nhớ tới câu thơ trong bài “Gửi Lai Châu” của nhà thơ Trần Mạnh Hảo “Hoa ban nở thành người con gái Thái”. Người con gái ấy là nàng Ban truyền tích; là những em áo cóm, khăn piêu uyển chuyển giữa vòng xòe; kín đáo, e ấp, không rực rỡ khoa trương “cứ lặng thầm mà trắng” bên “khoảng trời thầm lặng”. Những bông hoa ban gồm có năm cánh trông như hình trái tim, màu sắc chuyển dần từ tím, hồng nhạt rồi đến trắng. Nhị hoa có vị ngọt, rất hấp dẫn đối với nhiều loại côn trùng. Hoa ban nở, hương hoa dịu êm khiến tâm hồn người thơ đắm chìm trong trong sắc trắng của hoa. Ấy vậy mà dự cảm thi sĩ vẫn thấy “cánh mong manh canh cánh trong mơ”. Một cái gì “mong manh” không bền vững, một nỗi niềm nhung nhớ “canh cánh trong mơ”. Phải chăng yêu hoa, mơ hoa và đã từng rơi lệ vì hoa đã tạo nên cảm giác này. Đọc thêm Ngọc Bái mới hay tác giả giãi bày “Cái vẻ đẹp của hoa ban thật là mong manh. Cái sự mong manh của làn mây, giọt sương, vệt nắng ban sớm đậu trên cành lá. Cái mong manh của loài hoa muôn thuở, của mẫn cảm thương mến, dễ xao động”. Hoa ban là vẻ đẹp vốn có của thiên nhiên hào phóng ban tặng cho con người. Nó trở thành đối tượng thẩm mĩ của nghệ thuật và càng đẹp trong thế giới nội tâm của người nghệ sĩ. Thế nên, chút lãng mạn “con nai vàng ngơ ngác” của thơ mới và “Trăng mờ bên suối” của nhạc tiền chiến để người thơ bộc lộ tâm tình “Những đêm vắng giữa thênh thang đồng nội/ Có bóng em thổn thức dưới sương mờ”. Em “thổn thức” hay chính nỗi lòng tác giả đang cảm thương cho một đời hoa!

Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Bao cặp đôi yêu nhau đã từng thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu bền chặt. Loài hoa này còn tượng trưng cho sự trong trắng, trinh nguyên của người con gái. Vẻ đẹp thuần khiết của hoa ban trắng thường được ví như tâm hồn của những cô gái tuổi mười chín, đôi mươi. Vì vậy, khi chàng trai trao cho người con gái những bông hoa ban trắng tức họ muốn nhắn nhủ rằng mình sẽ chinh phục được sự cảm mến nơi bạn tình. Cũng bởi yêu hoa, yêu người mà loài hoa đặc trưng của vùng Tây Bắc ấy cứ trở đi trở lại trong thơ “Hoa ban trắng nói gì hoa ban trắng”; “Hoa ban trắng cứ lặng thầm mà trắng” như một nỗi nhớ nhung, một niềm khắc khoải. Để rồi bật thành lời yêu:  

Phía trời Tây cây từ độ hoang sơ

Cánh hoa trắng nhỏ nhoi xao động

Một khoảng nhớ chứa chan màu nắng

Cất vào thơ trinh trắng nẻo đơn côi

 

Em và hoa, nhà thơ và cái tôi thi sĩ hoà quyện. Cái trinh trắng của hoa, tinh khôi của đất trời và trong trẻo của hồn người được trao gửi vào thơ “Cất vào thơ trinh trắng nẻo đơn côi”. Thoáng nét buồn nhưng “khoảng nhớ chứa chan màu nắng” thắp sáng niềm tin, cho “Cánh hoa trắng nhỏ nhoi xao động” hồn người. Câu chữ hết mà dư ba của màu trắng hoa ban cứ nở xoà trong tâm tưởng, mở ra mênh mang chiều từ một nhành ban.

N.T.Q

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter