Tạc tượng đài Bác vào thơ

THẾ QUYNH

 

Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1962, thầy giáo Vũ Văn Đình được phân công lên dạy học tại Yên Bái. Mảnh đất của cuộc khởi nghĩa chống Pháp do nhà yêu nước Nguyễn Thái Học lãnh đạo; của thủy điện Thác Bà, của gạo trắng nước trong Mường Lò… đã nuôi dưỡng hồn thơ. Và bút danh Vũ Chấn Nam đã trở thành thân quen với bạn đọc các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Phú Thọ. Thơ ông viết về nhiều đề tài: quê hương, nghề giáo, tình yêu thiên nhiên, nỗi niềm thế sự… Song một mảng thơ quan trọng trong chặng đường sáng tác của tác giả là những bài thơ viết về Đảng, Cách mạng và Bác Hồ. Thật không quá lời khi có bạn đọc nhận xét ông là người ở Yên Bái có nhiều thơ nhất viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Về Pác Bó”, “Lán Nà Lừa”, “Ghi ở Tân Trào”… và “Bác về Yên Bái chiều thu ấy”. Những bài thơ với giọng thơ chân thành, mộc mạc mà sâu lắng đã diễn tả được cái lớn lao bên trong sự bình dị bề ngoài của lãnh tụ.

Viết về Bác, tác giả Vũ Chấn Nam mường tượng lại thuở cậu bé Nguyễn Sinh Cung ra đời ở quê hương Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An: “Nhớ làng Sen buổi Bác ra đời/ Đau đáu vầng trăng soi giếng Cốc/ Con chim hót giữa lòng đau mất nước/ Sắc trời xanh giục giã bước Người đi” (Tháng Năm). Ở Nghệ An mấy trăm năm nay, trong dân gian vẫn truyền miệng từ người này qua người khác, từ đời này qua đời khác ba câu sấm ký tương truyền do trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoánĐụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Nam Đàn sinh thánh. Nghĩa là: Khi nào núi Đụn bị phân chia ra 2 hay nhiều bộ phận, khe Bò Đái (hay Bồ Đái) nước chảy không nghe tiếng nữa thì huyện Nam Đàn sẽ sinh ra một vị thánh. Các cụ ở Nam Đàn nói rằng khi núi Đụn nứt đôi, khe Bò Đái chảy không nghe tiếng nữa thì rất phù hợp với thời kỳ Bác Hồ ra đời. Bằng cảm quan thi sĩ, Vũ Chấn Nam như dự báo được tương lai của bậc hiền tài. Những hình ảnh “Vầng trăng soi giếng Cốc/ Con chim hót giữa lòng đau mất nước/ Sắc trời xanh giục giã bước Người đi” vừa đẹp, vừa trong sáng mà như có ánh hào quang soi tỏa của sắc màu huyền thoại. Đất nước lầm than, anh hùng tái thế và tất yếu tuấn kiệt xuất hiện. Cũng ở bài thơ “Tháng Năm”, ta như được gặp lại bước chân Người “Ba mươi năm đi cuối đất cùng trời” “bốn biển năm châu” tìm chân lý. Vất vả với bao công việc nặng nhọc: phụ bếp, quét tuyết, đốt lò nhưng chính cuộc sống “gắn bó những con Người cùng khổ” với mục đích “thức tỉnh bao kiếp đời nô lệ” đã giúp Người tìm ra chân lý: “Đêm Pari Luận cương đến với Người/ Chim báo bão giục hoài quanh Pác Bó/ Bác trở lại trong bồn chồn thương nhớ/ Hang sâu này mắt bão đã bùng lên”. Về Pác Bó mùa xuân năm 1941, Bác thực sự bắt tay vào lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Một kỷ nguyên mới, một thời đại mới- thời đại Hồ Chí Minh bắt đầu mở ra. Sự kiện này từng được nhà thơ Chế Lan Viên viết “Cả nước mất, hang này là Độc Lập/ Thay non sông đón Bác buổi ban đầu”. Còn với Vũ Chấn Nam, mấy chục năm sau đặt chân đến đây, ngắm nhìn bao kỉ vật: núi Các Mác, suối Lênin, bàn đá, giường ván ghép… mà rưng rưng thấy được sự chuyển mình của cả một dân tộc:

Ôi có phải nơi đây bùng ngọn lửa

Mặt trời lên, thung lũng ngát hương mơ

Trong bão tố vụt trưởng thành khu Đỏ

Bác đã về, Dân tộc sáng đường đi

Tại đây, Bác đã có nhiều chủ trư­ơng và quyết sách quan trọng. Ngư­ời chủ trì Hội nghị Trung ư­ơng Đảng lần thứ 8 có ý nghĩa quyết định đến vận mệnh của đất nước, xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ giải phóng dân tộc đư­ợc đư­a lên hàng đầu; quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Mặt trận Việt Minh; biên soạn các tài liệu tuyên truyền cho cách mạng; thành lập đội du kích thoát ly đầu tiên ở Pác Bó (11/1941) gồm 12 ngư­ời là tiền thân của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Và ngày 22/12/1944 tại khu rừng Trần H­ưng Đạo, huyện Nguyên Bình, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đư­ợc thành lập gồm 34 chiến sĩ dư­ới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay). Sự kiện này cũng được tác giả Vũ Chấn Nam miêu tả qua hồi tưởng thật hào hùng Có phải bóng đa uy nghiêm trầm mặc/Nhớ đàn con tuyên thệ buổi ra quân/Nhớ hạt giống gieo từ bàn tay Bác/ Ba mươi năm ngồn ngộn những mùa vàng” (Ba mươi năm cây đa cột mốc).

Ngày 4/5/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đoàn cán bộ rời Pác Bó về Tân Trào (Tuyên Quang) để chỉ đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nư­ớc. Đến với Tân Tào, thăm lán Nà Lừa là lại được sống với ký ức, với vị cha già dân tộc tận tụy vì nước vì dân. Kỷ niệm năm xưa bừng thức dậy, lời Bác dặn đồng chí Văn “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới. Dù hy sinh tới đâu, dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập!” còn văng vẳng đâu đây. Nhất là tấm lòng của nhân dân đối với Bác “Siêu thuốc sôi âm ỉ trong chiều sương/ Tay mế hái tự lòng thương kính Bácthì khó bút nào tả xiết. Cũng tại “chiến khu cách mạng dựng nên Cộng hòa”, hình ảnh lãnh tụ hiện lên đẹp biết bao Đôi mắt ướt nhìn lên con thấy Bác/ Người lại viết… khi vừa lui cơn sốt/ Siêu thuốc còn đang sắc dưới cầu thang/ Vẫn ù ù ngọn gió núi Hồng sang” (Đến Nà Lừa). Và không gì đẹp hơn tại Quốc dân Đại hội Tân Trào- Hội nghị Diên Hồng thứ hai của lịch sử nước Việt Nam, sự gắn kết ý chí và tình cảm gần gũi giữa lãnh tụ với nhân dân đã tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “Đình Tân Trào Đại hội Quốc dân/Sáu mươi đại biểu khắp ba miền/ Khi Cụ Hồ Chí Minh ra mắt/ Dân bản gần xa đến chúc mừng” (Ghi ở Tân Trào). Đó cũng là tiền đề để có ngày “Cuồn cuộn Ba Đình cờ reo, hoa vẫy” với “thiêng liêng tiếng nói Bác Hồ” đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Đọc những bài thơ tác giả Vũ Chấn Nam viết về Bác Hồ, ta còn gặp ở đây một nghị lực phi thường vượt lên khó khăn gian khổ; một tinh thần lạc quan tin tưởng vào tương lai cách mạng thắng lợi của lãnh tụ kì tài có con mắt nhìn xa trông rộng; một thi nhân với tâm hồn lộng gió thời đại, thơm ngát cỏ hoa mà vẫn không xa rời hiện thực cuộc sống. Nào là khi Pác Bó, Nà Lừa “cháo bẹ rau măng”, “lán tre hoang lạnh” vẫn “Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”với niềm tin “Hai tay xây dựng một sơn hà”. Rồi chín năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp, việc quân bận rộn vẫn thả hồn cùng nước biếc, trăng trong “Buổi Bác đi thuyền trong đêm trăng/ Tứ thơ vụt đến lúc đi đường/ Ngàn lau phơ phất thành núi dựng/ Chiếc mũ trên đầu ướt đẫm sương” (Nhớ Bác đi thuyền trên sông Đáy). Chính cái bình dị, cái phẩm chất cách mạng sáng trong đã làm nên sự vĩ đại của con người Hồ Chí Minh:

Trong mắt Bác có trời xanh, biển rộng

Đuổi giặc rồi, Tổ quốc bốn mùa xuân

Ngày 25 tháng 9 năm 1958, Bác Hồ lên thăm tỉnh Yên Bái. Bác đã có cuộc nói chuyện với đồng bào và chiến sĩ tại sân vận động thị xã. Sự kiện này để lại ấn tượng sâu sắc và trở thành nguồn đề tài sáng tạo của nhiều văn nghệ sĩ trong tỉnh. Là người từng có nhiều tác phẩm viết về lãnh tụ, nhà thơ Vũ Chấn Nam đã cảm xúc viết nên bài thơ “Bác về Yên Bái chiều thu ấy”. Sau 50 năm nhớ lại, cảm xúc vẫn tươi nguyên như thuở ban đầu. Một Bác Hồ giản dị, gần gũi nhân dân “Đôi dép lốp, bộ bà ba gụ/ Người vẫn là ông Ké, vẫn Già Thu”. Những cái tên thân thương ông Ké, Già Thu từ ngày Bác hoạt động cách mạng ở Việt Bắc được tác giả nhắc lại không chỉ gợi bao kỷ niệm mà còn như khẳng định “Người là cha, là bác, là anh” của đồng bào các dân tộc Việt Nam. Không đứng trên nhân dân, giữa lãnh tụ và nhân dân hầu như không có sự cách biệt “Bác đi trên một con tàu chợ/ Như bao hành khách ở trong toa”. Nhớ lại kỷ niệm này, ông Đào Tiến Lộc kể: “Bác từ toa số 5 bước xuống, với dáng ung dung thanh thản trong bộ áo quần bà ba đã phai màu, đầu đội mũ cát, chân đi dép lốp, khăn mặt vắt vai, tay cầm quạt giấy giống hệt như một ông lão nhà quê phúc hậu cả đời người đã sống với đồng quê Việt Nam. Xuống tầu, Bác không đi ra cửa nơi chúng tôi đón mà tiến thẳng lên đầu tầu… Đùng một cái thấy Bác leo lên đầu máy bắt tay người lái tầu và hai công nhân xúc than ở đó, Bác cảm ơn chúc sức khỏe và tạm biệt!”. Lên thăm Yên Bái trong hoàn cảnh khi “Đất nước vừa ra khỏi chiến tranh”. Tất cả vẫn ngổn ngang khó khăn “Thị xã còn tranh tre, nứa lá/ Vùng cao còn bao người mù chữ/ Đất rộng, người thưa chưa đủ ăn”. Nhưng cũng trong bối cảnh đó, chân dung người cầm lái vĩ đại được khắc họa rõ nét hơn bao giờ hết:

Phòng Bác vào khuya vẫn sáng đèn

Rạng ngày Bác đến với nhân dân

Người dân mong Bác như mong mẹ

Lời Bác như lời cha với con.

Hết lòng lo toan việc nước, chăm chút đến hạnh phúc của nhân dân, phẩm chất này chỉ có ở những người thực sự “lấy dân làm gốc” và con người đó chính là Bác Hồ. Cũng vì vậy sự tin yêu của người dân đối với Bác ngày được nhân lên, không còn ở mức bình thường mà là niềm tin mang tính chất gia đình, phụ tử “Người dân mong Bác như mong mẹ/ Lời Bác như lời cha với con”. Và vượt lên nghi thức “lễ đài đơn sơ”, thì “Chiếc áo len màu ghi Bác mặc” cùng bài nói chuyện chân phương mà sâu sắc lại tạo nên một hình ảnh cao đẹp, một tượng đài sống mãi trong lòng nhân dân “Bóng Người lồng lộng trước sân Căng”.

Nhân kỷ niệm lần thứ 65 ngày Bác Hồ thăm Yên Bái, đọc lại những bài thơ viết về Bác để được cùng tác giả Vũ Chấn Nam sống lại hạnh phúc trong giờ phút thiêng liêng đón Bác. Và để gửi tới lãnh tụ lời hứa của lớp con cháu hôm nay đang học tập và làm theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh “Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi/ Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn” (Tố Hữu- Theo chân Bác).

T.Q

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter