Tìm về ngả rẽ ngày xưa

NGUYỄN THẾ QUYNH

Yêu thơ và tập làm thơ từ những ngày còn là học sinh phổ thông, lại được người thầy giáo- học giả An Chi dìu dắt, hồn thi sĩ trong Hà Ngọc Anh sớm nuôi dưỡng từ thuở ấy. Chỉ cho đến khi không còn bận bịu với công việc đứng lớp, tác giả mới chuyên tâm vào sáng tác. Hai mươi năm, bốn tập thơ ra mắt bạn đọc: Muốn nói cùng em (Nhà xuất bản Hội Nhà văn- năm 2002); Trái thu (Nhà xuất bản Hội Nhà văn- năm 2015); Những cơn mơ (Nhà xuất bản Hội Nhà văn- năm 2019) và Rẽ vào ngày xưa (Nhà xuất bản Hội Nhà văn- năm 2023).

Đọc thơ Hà Ngọc Anh ta bắt gặp cả một miền kí ức: Niềm vui, nỗi buồn những ngày dạy học vùng cao; Nỗi nhớ quê thăm thẳm với bao kỉ niệm thuở thiếu thời cùng người thân như cha, mẹ, anh, chị, bạn bè và cả mối tình đầu e ấp. Rồi những vùng đất đi qua, con người đã gặp, sự kiện từng trải. Có lẽ vậy mà tập thơ “Rẽ vào ngày xưa” tác giả chọn đề từ “những kí ức xanh/ trong cây trong đá” như một điểm tựa bền vững để khơi gợi cảm xúc. Ở Hà Ngọc Anh, quê hương luôn là mảng đề tài được quan tâm đặc biệt. Hàng loạt bài: Nhớ quê xa, Hương sắc quê hương, Nhớ mưa quê, Tôi về gặp lại, Về với quê nhà, Quê nhà lại bão, Nét quê, Giọt sương quê… đều hướng về nơi cắt rốn chôn rau. Đã từng “Hứng giọt nước gieo vào da thịt” để “Lặn trong ta gọi thức một miền xưa”. Nên khi trở lại cố hương, lắng “đếm giọt sương rơi bên thềm” mà cảm nhận “Giọt quê chắt những vui buồn/ Giọt đêm trĩu nặng tiếng sương gọi ngày” (Giọt sương quê). Tiếng sương gọi ngày hay là tiếng quê hương náo nức gọi ta về “Thời gian xanh bỗng ngoái đầu nhìn lại/ Tím ngọt ngào trong sắc cũ hương xưa” (Hương quê). Thơ ca Việt Nam từ xưa tới nay, người xa quê thường hay gợi lại những gì gần gũi, thân thương như canh rau muống, cà dầm tương; tiếng gà khuya eo óc; cây đa, bến nước, cổng làng… Sắc cũ hương xưa trong thơ Hà Ngọc Anh chỉ đơn giản là “bóng tre quê”, “bầy gọng vó tung tăng bên bè rau”, “Mùi rơm khô gọi rì rào ổ rạ”,  Chát ngọt chùm nụ vối’… nhưng nó là hồn quê. Để rồi mỗi khi ngày hết lại bâng khuâng nhớ “Tiếng cu gáy gọi chiều mênh mang đến/ Mùi ngô non mê mướt bãi sông xa” (Nét quê). Yêu quê, luôn hướng về quê hương để mà cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn; cùng lo lắng với người quê lúc thiên tai bão lụt:

Sao quê mình bão gió chẳng theo mùa

Sương nắng mòn vai mẹ cha quầng thâm mắt

Áo hết vá nhưng tóc thêm sợi bạc

Da bớt chàm nhưng trán nếp nhăn sâu

Ơi quê mình! Nơi cắt rốn chôn rau

                           (Quê nhà lại bão)

Đã bước vào cái tuổi ngoại thất thập, người thân kẻ còn người mất nhưng kỉ niệm về họ dường như vẫn hằn sâu trong trí óc. Giống như bao người con hiếu thảo, hình cha bóng mẹ chưa bao giờ nhòa nhạt trong tâm thức “Đây bậc thềm đầy nắng/ Bóng mẹ nhạt sớm khuya/ Căn nhà trên đầy gió/ Hình như… bóng cha về” (Về với quê nhà). Tôi được tác giả kể lại rằng cha ông làm hương sư, có tham gia du kích và bị giặc Pháp giết. Do mồ côi cha khá sớm nên hình ảnh đọng lại chỉ còn qua lời kể của mẹ “Cha về/ áo chùng khăn xếp/ chân đi giày, tay ôm tráp/ với nhiều đồng sự chân thô/ Người mang súng, ba lô/ Người dao găm, mã tấu…” (Những cơn mơ). Và những gì còn lại bây giờ là ngôi nhà cha từng dạy học, cây dừa già dáng thẳng chót vót cao chính tay cha trồng với “Những chùm dừa giấu buồn sau tán lá/ Cứ vàng dần xô dạt rụng trên ao” (Dáng cha). Bấy nhiêu năm, nỗi khắc khoải về người cha chưa được công nhận liệt sĩ cứ day dứt các thành viên gia đình. Mỗi khi nhìn lên khoảng tường trống vì còn thiếu tấm “Bằng Tổ quốc ghi công”, như lại thấy cha về “Như muốn nói gì/ Rồi lại lặng lẽ đi” (Những cơn mơ). Còn người mẹ! Trong tâm trí tác giả mẹ luôn hiện lên với tấm lòng đôn hậu, tình cảm nồng ấm “Nước chè xanh mẹ nấu/ Thơm mát tận đáy lòng/ Đêm chìm trong tiếng mẹ/ Trời khuya ấm, mênh mông” (Về thăm mẹ). Mẹ sớm phải đón nhận nỗi đau từ sự hy sinh của chồng và đứa con thân yêu “Chuyện cha, chuyện anh mẹ tôi giữ trong ngọn đèn khuya sớm” (Tuổi thơ xưa). Một mình bươn trải, oằn vai “gánh cả đời bão giông” nuôi đàn con khôn lớn nên người. Và chỉ cần nói “Gánh mẹ” đủ để biểu đạt hết sự thấu cảm của đứa con chí hiếu với vất vả của bậc sinh thành:

Gánh ngày… ủ những đêm đông

Gánh đêm… dành chút nắng nồng cho con

                                                  (Gánh mẹ)

Cùng đó nỗi nhớ người anh đã hi sinh ra đi chẳng định tháng ngày lúc “Đất nước trong thời gian khổ”; thông cảm với người chị đánh mất tuổi xuân trong buổi tao loạn “Thương chồng xót con lận đận/ chị tôi cất giấu tiếng cười”. Và hình như còn một mối tình lỡ dở mà bao năm qua vẫn làm người xa quê day dứt “Năm mươi năm hẹn ngày về/ Còn không… sau những bộn bề gió mưa” (Còn không?). Trong các tập thơ trước, có nhiều bài cùng nỗi niềm: Muốn nói cùng em, Vấn vương, Tìm em, Trăng xưa, Bến xưa… Thế nên “Rẽ vào ngày xưa” cũng chính là cầu nối để được về sống cùng hoài niệm. Ở tập thơ này, dung lượng người thơ dành cho mảng tình yêu khá phong phú. Hình ảnh cô gái quê “Nón lá bạc cứ tròng trành không nghỉ” hiện lên thật tươi tắn trong mắt chàng trai si tình “Em đi về sương trắng nắng hai vai/ Hương đồng nội vẫn gài lên mái tóc/ Sắc quê mình cứ ngời trong ánh mắt/ Nét quê đằm thắm ngọt nụ cười em” (Nét quê). Rồi kỉ niệm “Trên sân ga” về lần “Nhỡ tầu” không buồn mà thành ấn tượng sâu để mỗi khi “Vẳng tiếng còi tầu” lại xao xuyến “Còi tầu văng vẳng xa xa/ Mênh mang nhớ những nhạt nhòa cõi xưa”. Năm mươi năm, tất cả đã bước vào “tuổi xưa nay hiếm” nhưng tình yêu ban đầu thì vẫn đẹp, vẫn tươi trẻ mãi không già “Chỉ có trời xanh ngàn đời không xê dịch/ Như tình yêu chúng mình đẹp mãi tuổi đôi mươi” (Tuổi xanh một thuở).

Được đào tạo làm nghề dạy học và lên công tác miền núi, ông rất thông cảm với những khó khăn của các em học sinh nơi vùng cao. Bản thân cũng đã qua tuổi học trò “Trong tôi vẫn đậm màu mực tím/ theo mỗi trang đời… mỗi phút giây”, nay trực tiếp tham gia giảng dạy thế hệ trẻ mà lòng những lâng lâng dâng trào cảm xúc “Ngắm nhìn em tôi tìm lại chính mình/ gắng hiểu em qua từng lỗi nhỏ/ chẳng nỡ trách đâu những bước đầu vấp ngã/ phía giữa sân trường/nắng mới lên” (Tìm lại chính mình). Tận tụy với nghề, gắn bó với những mái trường thân yêu, nhà thơ- người thầy giáo ưu tú luôn một tâm niệm tất cả vì học sinh thân yêu “Thời gian xanh vẫn hứa những đam mê/ Không gian tím vẫn nợ bao lời hẹn/ Ta đã thấy và ta sẽ đến/ Cánh phượng đầu trong vở lại bừng tươi(Tiếng ve… xa lắm).

Đọc “Rẽ vào ngày xưa” và những tập thơ khác, tôi đồng tình với nhận định của nhà giáo- tác giả thơ Nguyễn Ngọc Trìu “Thơ Hà Ngọc Anh vốn nương tựa chủ yếu vào tình cảm, nay có thêm độ sắc sảo của lí trí, của đằm sâu suy tưởng”. Chọn phương thức biểu cảm thông qua hình tượng thơ sáng tạo nên ở thể loại nào: lục bát, thất ngôn, ngũ ngôn hay thơ tự do người đọc không có cảm giác cũ. Đó là một “Ngẫu hứng tháng Ba” với hình ảnh ánh trăng thực ảo “Lung linh thế có bao giờ/ Ôm tròn nỗi nhớ bên bờ sông trăng”; hay “Mười hai bến nước “vốn là thành ngữ dân gian khéo trở thành “Mười hai bến gió” biểu hiện mới cho niềm thương nỗi nhớ “Dập dềnh con nước vơi đầy/ Mười hai bến gió chẳng giây phút ngừng” (Bến gió)… Ở ông vốn tri thức dân gian và kí ức quê đầy ắp nên chỉ cần gõ nhẹ vào nỗi niềm là hình ảnh, ngôn ngữ cứ ào ạt tràn về: “Mùi rơm khô gọi rì rào ổ rạ”; “Tao tác vườn gió vò mưa tuốt/ Những thân cò ngắc ngoải rã cánh bơi”; “Nước xấp bờ ngưng hương lúa tháng ba/ Cánh cò trắng vẽ miền xanh ngút ngát”; “Nắng mưa đày mái tóc cóng sương đêm”… Song cuộc sống đang ngày càng có nhiều thay đổi, hiện thực mới cùng với những cách nói mới cũng là đòi hỏi của thơ để tránh sự lặp lại chính mình. Có ai đó nhận định “Thơ hiện đại không chỉ đem lại cái mới về nội dung tư tưởng, cảm xúc mà còn đổi mới về phương thức biểu cảm, về sáng tạo hình ảnh, cấu trúc câu thơ, ngôn ngữ thơ”. Dù tuổi cao, làm thơ đã nhiều song tác giả cũng luôn ý thức, trăn trở điều đó. Những vấn đề về thời cuộc, về cuộc sống và con người phần nào đã thấy xuất hiện trong hầu hết mấy tập thơ: chuyện trang giấy và sứ mạng nhà thơ đến việc bảo vệ môi trường sống, lối sống gấp gáp đô thị; rồi chiến tranh và hòa bình, niềm tin cùng khát vọng… Viết theo hướng phản biện này tuy chưa thật sắc sảo song cũng đã có câu thơ giàu tính triết luận: “Đường em đâu chỉ có hoa/ Sớm mai đâu phải đã là bình minh” (Thuở ấy… đinh ninh); hay “Mặt trời đã đổi hướng/ Hay bởi tại con đường” (Tại sao). 

Một mình trong cõi thơ nên người làm thơ thường có cảm giác cô đơn. Tâm trạng này ta cũng gặp ở tác giả Hà Ngọc AnhGió không biết ngủ/ Ta chẳng hết buồn/ Gió cô đơn sao cứ theo ta mãi” (Gió cô đơn); hay “Một ta với một đơn côi/ Chông chênh bên một mảnh trời xô nghiêng” (Chông chênh). Âu là lẽ tự nhiên để người thơ được bộc lộ mình, để tìm đến những tâm hồn đồng điệu. Và cũng để “Rẽ vào ngày xưa” mặc định hướng đi trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.

T.Q

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

11-15 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter