Quang Bách- Người thầy giáo tâm huyết với văn chương

Hoàng Việt Quân

Nhà giáo- tác giả văn xuôi Yên Bái Lương Quang Bách còn có bút danh Quang Bách, sinh ngày 16/3/1940 (năm Canh Thìn) tại làng Tố, xã Trạm Thản, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Ông xuất thân trong một gia đình nông dân nhiều đời gắn bó với ruộng đồng, đồi núi vùng trung du Bắc Bộ. Tỉnh Phú Thọ vốn nổi tiếng trong câu thơ Tố Hữu “Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt”, nhưng với vùng quê của Quang Bách thì không hẳn như thế. Rừng cọ, đất đai thì có nhưng không hề có “đồng xanh ngào ngạt” như nhà thơ từng mô tả. Nơi đây đất đai khô cằn thuộc diện “chó ăn đá, gà ăn sỏi”, trồng cấy khó khăn, mùa màng luôn thất bát, đời sống nhân dân thiếu thốn. Đặc biệt, vùng quê ông lại xa sông, xa chợ nên việc buôn bán, trao đổi hàng hóa, giao lưu văn hóa tinh thần rất hạn chế, dẫn đến trình độ dân trí thấp. Tuy vậy, hình ảnh thôn quê lam lũ, đói nghèo với văn hóa bản địa tự thân của những rừng cọ, đồi chè, kỹ năng làm nhà gỗ lợp cọ, kỹ năng làm ruộng nước trên những thửa ruộng khô cằn... đã thấm sâu trong lòng ông, khiến cho mỗi khi ông sáng tạo văn học sau này, nhất là khi ông viết về vùng trung du, hồn quê trong tác phẩm của ông luôn hiện ra cụ thể, sinh động. 

Cuộc đời ông gắn bó với hai sự nghiệp, đó là quá trình học chữ- dạy học, sau đó là quá trình sáng tác văn học giúp ông trở thành tác giả có danh tiếng của tỉnh Yên Bái.

1.Quá trình học chữ và dạy học 

Sống trên vùng đất gian khó, bố mẹ Quang Bách sớm có ý thức nuôi dạy con cái với mong muốn các con được học hành đầy đủ nên rất chịu khó cấy cày, tích lũy gạo tiền cho các con ăn học để mở mang tri thức, có cơ hội thoát nghèo. Khi Lương Quang Bách 6 tuổi, các cụ đã mời ông giáo Thu đến nhà khai tâm khai trí cho con bằng những bài học vỡ lòng từ A, B, C… Thế nhưng thời ấy cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở thời kỳ ác liệt, máy bay giặc Pháp ném bom bừa bãi suốt ngày đêm, thầy giáo Thu đưa vợ con vào ở hẳn trong một rừng cọ cách làng vài ba cây số, thế là việc học hành của ông bị dang dở. Bố ông thương con, song vốn chữ quốc ngữ của cụ còn hạn chế, chỉ bằng một phần mười chữ Nho mà cụ biết. Tuy vậy, Quang Bách cũng ít nhiều tiếp thu nguồn Nho học của cụ.

Mãi đến năm 1950- 1951 xã Trạm Thản mới có phong trào bình dân học vụ, bố mẹ lại động viên các con đi học. Lớp học ban đêm mở ra ở rừng cọ, ánh sáng là đuốc và nhựa trám bọc lá chuối gọi là “nến trám”. Mỗi khi có máy bay địch, các học viên đều phải tắt hết đóm, nến, khi máy bay đi rồi lại đốt sáng học tiếp. Người học thì đông, người dạy thì ít, hơn nữa mấy thầy giáo dạy bình dân học vụ chữ nghĩa cũng có hạn nên kết quả chẳng được là bao.

Đến năm 1954, hòa bình lập lại, xã Trạm Thản mới có trường công. Ngày ấy Quang Bách đã 14 tuổi, bố mẹ phải làm giấy khai sinh rút xuống 5 tuổi, ông mới được vào học lớp 1. Từ đó ông chăm chỉ học hành, năm nào cũng lên lớp cho đến khi tốt nghiệp cấp II năm 1961, sau đó đi học Trung cấp Sư phạm. Năm 1963, Quang Bách ra trường, được phân công về dạy học tại trường cấp I, II xã Vụ Quang, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Cũng năm 1963 Quang Bách lấy vợ cùng quê là Bùi Thị Hùng, sinh năm 1945. Tháng 9/1964, ông tình nguyện lên Lào Cai dạy học theo lời kêu gọi của Đảng và Nhà nước, ông đưa vợ lên Lào Cai, xin cho vợ vào làm ở Nhà máy đường rượu giấy Lào Cai để ổn định cuộc sống, yên tâm công tác. Ông được kết nạp vào Đảng năm 1966. Gần 20 năm gắn bó với sự nghiệp giáo dục vùng cao Lào Cai, kể cả dạy học cấp II và về làm ở Phòng Giáo dục thị xã Lào Cai, ông đều hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. 

Năm 1979 xảy ra chiến tranh biên giới, vợ ông theo cơ quan về công tác tại Nhà máy đường rượu giấy Hoàng Liên Sơn tại thị xã Yên Bái, còn ông được cử đi học ở khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc. Năm 1983, ông được phân công về dạy học môn Văn tại Trường cấp 3B (nay là Trường THPT Lý Thường Kiệt thành phố Yên Bái) cho đến năm 2000 thì nghỉ hưu, làm Tổ trưởng khu dân cư nhiều năm, hiện cư trú ở tổ Phúc Tân, phường Nguyễn Phúc, thành phố Yên Bái.

Vợ ông, bà Bùi Thị Hùng, một người phụ nữ hiền lành, chăm chỉ, suốt đời tận tâm tận lực âm thầm giúp đỡ chồng con, giúp ông yên tâm công tác, hoàn thành nhiệm vụ được giao và theo đuổi sự nghiệp văn học. Bà cũng đã cùng chồng nuôi dạy 4 đứa con (2 trai, 2 gái) học hành tử tế, đều tốt nghiệp Đại học. Hiện tại ông bà đã có cháu nội là Thạc sĩ Ngân hàng đang công tác ở Hà Nội.

 

Họa sĩ Nguyễn Đình Thi- Chủ tịch Hội Liên hiệp VHNT tỉnh Yên Bái tặng tác giả Quang Bách

tấm Poster giới thiệu về sự nghiệp sáng tác của tác giả.

 

2. Tình yêu văn chương và con đường đến với sáng tác văn học 

Được bố mẹ sớm quan tâm đến việc học hành nên Lương Quang Bách yêu văn chương từ nhỏ. Bước vào cấp I, ông được nghe nhiều chuyện cổ tích nên rất yêu thích. Ông tìm đọc các truyện nôm khuyết danh như Thạch Sanh, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Phan Trần, Bích câu kỳ ngộ… Đặc biệt truyện Kiều đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của ông. Lên lớp 4 ông đã biết làm thơ, lên cấp II viết báo và là chủ bút của nhiều tờ báo tường của lớp. Ông coi văn chương là nơi thể hiện tâm tư, tình cảm, là nơi bộc lộ tình yêu quê hương đất nước, con người. Ông cũng nhận thức được văn chương là vũ khí đấu tranh để bênh vực người bị áp bức bóc lột, chống lại kẻ ác, chống lại bọn giặc xâm lược. Văn chương còn là nơi gửi gắm tấm lòng yêu thương, bao dung độ lượng của con người, của ông bà, cha mẹ đối với các thế hệ con cháu… Trong quá trình học cấp I, ông luôn được xếp thứ nhất, thứ nhì của lớp. Lên cấp II luôn là học sinh khá, giỏi,riêng môn văn luôn được điểm 5 (thời ấy các trường phổ thông cho đến thang điểm 5 là cao nhất).

Năm 1964, ông có truyện ngắn đầu tay “Lên đường” được Đài truyền thanh tỉnh Lào Cai đọc trong buổi phát thanh văn nghệ, do phát thanh viên Lý Thị Bích đọc rất diễn cảm, khiến ông vô cùng sung sướng. Từ đó ông có dịp quen biết các tác giả Thèn Sèn, Quản Trung Cầm, Ngô Ngư, Trâm Anh… ở Ty Văn hóa tỉnh do ông Dương Văn Hà làm Trưởng ty. Được sự giúp đỡ và khuyến khích của họ, Quang Bách đã hứng khởi sáng tác thêm được một số bài thơ, truyện ngắn mới. Tuy không gửi đi in, nhưng ông có ý thức tự biên tập, sắp xếp thành hai tập bản thảo với ý định có cơ hội thì gửi đi in thành sách. Rất tiếc! Dự định của ông không thành vì chiến tranh biên giới nổ ra ngày 17 tháng 2 năm 1979, hai tập bản thảo trên không còn do đạn pháo của quân Trung Quốc xâm lược bắn cháy cơ quan Phòng Giáo dục Lào Cai, nơi ông công tác và cất giữ bản thảo. Từ đó, ông càng có ý thức tích lũy vốn sống, sưu tầm tư liệu văn học, tiếp tục sáng tác thơ và truyện ngắn, bắt đầu suy nghĩ đến việc viết tiểu thuyết.

Tốt nghiệp Đại học, năm 1983 ông về dạy học ở Trường cấp 3B thị xã Yên Bái (nay là Trường THPT Lý Thường Kiệt thành phố Yên Bái), niềm ham mê sáng tác văn học càng hối thúc ông. Ông âm thầm cặm cụi lên lớp, âm thầm ngồi viết văn thơ, trong khi nhà thơ Lò Ngân Sủn cùng trường ngày đó đang nổi danh, sau đó lần lượt đến Hoàng Việt Quân,Vũ Quý, Nguyễn Thế Quynh được kết nạp vào Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái, càng giúp ông có động lực sáng tác. Tháng 5/1992 tôi được chuyển ngành về làm biên tập Tạp chí “Văn nghệ Yên Bái” cũng là lúc phong trào sáng tác văn học của thầy và trò Trường cấp 3B đang sôi nổi. Hội văn học nghệ thuật tỉnh đã phối hợp với nhà trường tổ chức cuộc thi sáng tác văn học cho nhà trường, đồng thời giúp nhà trường chính thức thành lập Câu lạc bộ thơ văn từ cuối năm 1992 do một số thầy giáo dạy văn phụ trách như thầy Quang Bách, Nguyễn Ry… Thầy Quang Bách vừa sáng tác vừa có nhiều công sức xây dựng Câu lạc bộ thơ văn của trường phát triển trong suốt những năm 1992 - 2009, nhất là trong thời gian 1992-1995 tạo nguồn hội viên cho Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh. Bản thân thầy Quang Bách cũng có những tác phẩm đầu tiên được đăng trên Tạp chí “Văn nghệ Yên Bái” như: truyện ngắn “Trong ngôi miếu cổ” (1992), “Tìm bạn” (1994), bài thơ “Lỡ rồi” và có truyện ngắn đoạt giải năm 1993. Với những thành công bước đầu, thầy giáo Quang Bách được kết nạp vào Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái năm 1994. 

Thầy Quang Bách còn là hội viên sáng lập (2007) và là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Unesco thơ Đường luật Việt Nam Chi nhánh tỉnh Yên Bái khóa I (2008- 2010), khóa II (2010- 2013). Năm 2011, Câu lạc bộ được đổi tên là Hội thơ Đường luật Việt Nam, ông được đổi chức danh là Chủ tịch Chi hội thơ Đường Luật tỉnh Yên Bái. Ông đã có nhiều công sức quản lý, tổ chức cho chi hội hoạt động có hiệu quả, in được một số ấn phẩm đáng quý.

Với tư cách hội viên và sự miệt mài cần cù, sáng tạo, Quang Bách có nhiều tác phẩm được công bố trên tạp chí ấn phẩm văn nghệ ở địa phương và Trung ương. Riêng trong Tạp chí “Văn nghệ Yên Bái” từ năm 1992 đến tháng 9 năm 2020 ông đã có 82 tác phẩm được công bố, trong đó có 33 truyện ngắn, 22 bài ký, 22 bài thơ,1 vở kịch ngắn, 4 bài đọc sách và bình thơ. Ông có 03 truyện ngắn được in trên báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam.

Quang Bách xuất bản được 8 tập sách kèm theo giải thưởng như sau:

1. Người cha bất hạnh (tập truyện ngắn), NXB Văn hóa dân tộc 1996, dày 168 trang, gồm 11 truyện, giải Ba Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái năm 1997.

2. Phía bên kia rừng cọ (tiểu thuyết), NXB Văn hóa dân tộc 1998, dày 128 trang, giải Ba Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái năm 1998.

3. Từ bỏ lời nguyền (tập truyện ngắn), NXB Văn hóa dân tộc, 2006, dày 200 trang, gồm 14 truyện, giải khuyến khích Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái năm 2006.

4. Sương thu (tiểu thuyết), NXB Văn hóa dân tộc, 2007, dài 180 trang, giải C Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái năm 2007.

5. Tâm tình vùng cao (tập ký), NXB Văn hóa dân tộc, 2007, dày 234 trang, gồm 22 bài bút ký và ghi chép. Bài bút ký "Tâm tình vùng cao" được đọc trong buổi phát thanh văn nghệ của Đài Tiếng nói Việt Nam.

6. Hương sắc một vùng quê (tập tiểu luận phê bình), NXB Văn hóa dân tộc, 2008, dày 142 trang, gồm 19 bài, giải C Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái năm 2009.

7. Khúc tình xuân (tập thơ), NXB Hội Nhà văn, 2010, dày 72 trang, gồm 44 bài thơ, giải Khuyến khích Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái năm 2010.

8. Trầm tĩnh những nẻo đường (tiểu thuyết), NXB Hội Nhà văn 2019, dày 428 trang, giải B Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái năm 2019. 

Hiện nay ông đang chuẩn bị công bố tiếp tập truyện ngắn “Ngôi nhà thừa tự”.

Ngoài các tập sách in riêng, Lương Quang Bách còn có tác phẩm văn thơ in chung với nhiều tác giả trong 28 tập sách và ấn phẩm như sau: Thơ Yên Bái (1994), Sáng tác trẻ Yên Bái (1996), Vì trẻ thơ (1996), Thơ Yên Bái (2000), Văn học nghệ thuật kỷ yếu và tác phẩm (2000), Truyện ngắn Yên Bái (2001), Văn nghệ Nghĩa Lộ (2002), Văn học nghệ thuật Yên Bái tác giả và tác phẩm (2005), Trường THPT Lý Thường Kiệt 40 năm xây dựng và trưởng thành 1965- 2005 (2005), Truyện ký và Thơ Yên Bái (2006), Trên trận tuyến mới (2007), Ráng đỏ miền Tây (2007), 65 năm những chặng đường (2009), Miền đất nhớ tập2 (2009), 99 bài thơ Yên Bái (2010), Truyện và ký Yên Bái 2005 - 2010 (2010), Yên Bái Đường thi chọn lọc (2010), Một vùng thơ chân dung phác thảo (do Ngọc Bái tuyển chọn, bình thơ, 2011), Đây miền ban trắng (2001), Mùa xuân xướng họa thơ Đường (2012), Thơ Yên Bái 2010- 2015, Văn xuôi Yên Bái 2010- 2015, Miền đất nhớ tập4 (2015), Giang sơn gấm vóc (2016), Thi đàn truyền thống Việt Nam (2018), Văn xuôi Yên Bái chọn lọc (2019), Thơ Yên Bái chọn lọc (2019).

Quang Bách có tác phẩm đoạt các giải thưởng khác như sau: 

- Truyện ngắn “Tìm bạn” giải Khuyến khích cuộc thi sáng tác “Vì trẻ em, cho trẻ em” Yên Bái năm 1993. Tác phẩm được đọc trong buổi phát thanh thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam.

- Truyện ngắn “Nỗi đau người chị” giải Khuyến khích cuộc thi sáng tác trẻ Yên Bái năm 1993- 1995.

- Hai bài ký “Người thầy giáo thương binh và đứa con tật nguyền”, “Ông chủ lò gạch ở Văn Yên” giải Nhì Cuộc thi viết về thương binh liệt sĩ, người có công tỉnh Yên Bái năm 2006- 2007. 

- Bài ký “Ngọt ngào Mù Cang Chải” giải C Cuộc vận động sáng tác về chủ đề “Tự hào truyền thống quê hương Yên Bái” năm 2007- 2009. 

- Vở kịch “Cuộc gặp gỡ bất ngờ” giải Nhất Cuộc thi sáng tác kịch bản sân khấu về đề tài An toàn giao thông năm 2016.

Với những thành tích trong sự nghiệp Giáo dục- Đào tạo và những hoạt động văn học nghệ thuật, Lương Quang Bách đã nhận được nhiều khen thưởng của Đảng và Nhà nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Hội và đoàn thể ở Trung ương, địa phương, có thể kể: Huy hiệu 30 năm, 35 năm, 40 năm, 45 năm, 50 năm tuổi Đảng; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba, Huy chương vì sự nghiệp Giáo dục, Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Cựu giáo chức Việt Nam, Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Khuyến học Việt Nam, có trên 50 Bằng khen và Giấy khen của Trung ương và địa phương. 

Văn thơ Quang Bách chủ yếu viết về cuộc sống, con người miền trung du Phú Thọ và miền núi Lào Cai- Yên Bái, nơi ông đã từng sinh sống, công tác, trong đó văn xuôi là niềm đam mê và thế mạnh của ông. Văn xuôi của ông đề cập tới nhiều vấn đề xã hội: Thân phận và nỗi bất hạnh của con người, gia đình và sự xuống cấp đạo đức của một bộ phận dân chúng, giáo dục và sự vươn lên của người thầy giáo, cuộc sống thôn quê miền trung du và đồng bào miền núi… Nếu trong tập truyện ngắn “Người cha bất hạnh" ông đề cập nhiều đến nỗi đau khổ, bất hạnh của con người do chính mình gây ra để cảnh báo con người phải cảnh giác, tự điều chỉnh mình thì đến tập truyện ngắn “Từ bỏ lời nguyền" các nhân vật có sinh khí hơn, con người đã từng bước rũ bỏ các thói quen, tập quán lạc hậu, vươn lên trong quá trình đổi mới quê hương đất nước; hơn nữa bản sắc văn hóa, cuộc sống và hình ảnh đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi hiện lên rõ rệt hơn. Lần lượt theo dõi, xem xét qua thời gian viết truyện ngắn của ông ta nhận thấy các tác phẩm đã phản ánh cuộc sống trong quá trình chuyển hóa tư tưởng, nhận thức từ thời bao cấp sang thời đổi mới với nhiều tâm tư, suy nghĩ, ước vọng tốt đẹp của tác giả. Với các cuốn tiểu thuyết “Phía bên kia rừng cọ”, “Sương thu”, Trầm tĩnh những nẻo đường” được viết bằng kết cấu và lối trần thuật truyền thống, giàu vốn sống miền trung du đan xen sự thâm nhập đời sống đồng bào các dân tộc miền núi,vùng cao, vùng xa ở Lào Cai- Yên Bái. Điều này được khắc họa thành công hơn cả trong tiểu thuyết “Trầm tĩnh những nẻo đường” giúp ta hiểu cuộc đời người thầy giáo vốn sinh ra, lớn lên từ vùng trung du, đi học và trải qua những nẻo đường gian khó, đầy thử thách trong môi trường giáo dục vùng cao, từng bước trưởng thành. Sâu xa mà nói, có thể coi đây là tác phẩm tự truyện được chuyển hóa thành tiểu thuyết khá thành công. Còn với tập ký “Tâm tình vùng cao” hầu hết là tác phẩm phản ánh hiện thực cuộc sống hiện nay trên vùng đất Yên Bái đang có nhiều thay đổi. Với tập tiểu luận phê bình “Hương sắc một vùng quê" gồm 19 bài bình thơ,bình một số tập thơ của tác giả Yên Bái, ta thấy ông có khả năng thẩm định, bình thơ khá điềm đạm, đúng mức của một nhà giáo có thâm niên trong nghề dạy học.

Bên cạnh những thành công, văn xuôi của ông cũng còn có những hạn chế ở lối viết kể chuyện,đôi khi dài dòng, thiếu cô đọng, một số nhân vật cùng cực, đau khổ, bất hạnh, không mở ra lối thoát. Tuy nhiên, nhìn ở tổng thể, các tác phẩm văn xuôi của ông vẫn giàu lòng trắc ẩn, phản ánh được quá trình phát triển của quê hương đất nước trên con đường đổi mới. Điều đáng trân quý của Quang Bách là suốt đời tận tụy với sự nghiệp giáo dục và luôn tâm huyết với văn chương, để lại các tác phẩm ít nhiều có giá trị.

 

                                                                                    H.V.Q

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter