Nhớ mãi nhà văn Tùng Điển- Người truyền lửa đam mê

NGUYỄN THỊ BÌNH 

Chiều nay (11/7/2022), tôi bàng hoàng khi nhận được tin sét đánh: Nhà văn Tùng Điển, nguyên Phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam; Giám đốc Quỹ hỗ trợ sáng tạo Văn học Nghệ thuật Việt Nam vừa rời cõi tạm. Tôi không thể tin nhà văn- người mà tôi rất yêu mến, kính trọng đã ra đi đột ngột như vậy. Lúc này, cảm xúc trong tôi thật bộn bề, lẫn lộn khó diễn đạt thành lời. Một khoảng trống khó lấp đầy trong lòng tôi. Vô cùng thương tiếc một nhà văn, một con người, một nhân cách mà tôi rất ngưỡng mộ.

Có lẽ do cái duyên văn chương, tôi được quen biết nhà văn Tùng Điển chừng hơn mười năm trở lại đây. Tôi nhớ, ngày ấy Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình có đăng truyện ngắn “Tôi và hai người lính Tây” của nhà văn Tùng Điển. Tôi đọc thấy hay, hấp dẫn, giọng văn và cấu tứ lạ, nên đã viết lời bình cho truyện ngắn này. Sau đó ít lâu, nghe đồng chí Chủ tịch hội VHNT Ninh Bình nói: Tùng Điển đã đọc và rất thích bài viết của tôi, trong khi tôi chỉ biết tác giả tên Tùng Điển chứ không hề biết ông là ai (vì tôi mới vào Hội Văn học Nghệ thuật Ninh Bình). Cuối năm đó, trong dịp Hội VHNT Ninh Bình tổ chức tổng kết một năm hoạt động, nhà Văn Tùng Điển có về dự, lúc ấy nghe phần giới thiệu khách mời, tôi mới biết tên tuổi, nhà văn và thú thực cũng thấy hơi ngại. Ngại vì một người không tên tuổi như tôi lại “dám” viết về tác phẩm của một nhà văn lớn, có chức sắc... Đến giờ giải lao, nhà văn Ninh Đức Hậu cùng nhà văn Tùng Điển xuống dưới hội trường gặp tôi và giới thiệu, tôi là tác giả bài bình “Tôi và hai người lính Tây- Một câu chuyện đậm tính nhân văn”. Nhà văn Tùng Điển lúc ấy cười thật hiền hậu, bắt tay cảm ơn tôi và “tếu”: “Anh cứ nghĩ người viết phê bình chắc phải vừa già vừa xấu cơ, không nghĩ lại trẻ và đẹp như em”. Tôi đỏ mặt xấu hổ, nhưng cũng vui vì ông đã giúp tôi xóa tan khoảng cách của một người lãnh đạo với cấp dưới. Tôi tự tin hơn và bớt đi sự e dè, mặc cảm. Cảm nhận ban đầu của tôi là ông rất dễ gần, dễ mến và có sức thu phục lòng người. Sau này, càng được diện kiến ông, tôi càng thấy ông là người tỉ mỉ, tận tụy, chu đáo, chân tình, cởi mở. Tôi trộm nghĩ, người như ông chỉ cần được gặp một lần sẽ để lại ấn tượng mãi mãi.

Từ đó, tôi và ông trở nên thân thiết hơn. Thi thoảng anh em vẫn gọi điện hỏi thăm nhau. Nhưng có lẽ gần năm nay tôi và ông không liên lạc, nhiều lần tôi định gọi điện cho ông nhưng cứ chần chừ lại thôi… Cho đến hôm nay, nghe tin buồn về ông, tôi thấy ân hận và thật sự choáng váng, cứ ngỡ mình đọc nhầm, nghe nhầm.

Nhớ lại những kỷ niệm cũ, ông thường là khách mời trong các kỳ Đại hội, tổng kết, hay các đợt mở trại sáng tác của Hội VHNT Ninh Bình chúng tôi. Mỗi lần gặp, ông đều hồ hởi, chân tình, hỏi thăm tôi đủ chuyện, từ chuyện sức khỏe, gia đình đến chuyện viết lách… cứ như người thân lâu ngày gặp lại. Tôi còn có may mắn được tham dự 4 khóa lớp Bồi dưỡng Lý luận Phê bình do Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tổ chức tại Hà Nội. Khóa học nào, lớp chúng tôi cũng được nghe ông giảng về lĩnh vực văn xuôi. Không chỉ chú trọng đến vấn đề chuyên môn, ông còn luôn có ý thức truyền lửa đam mê cho chúng tôi, khích lệ động viên chúng tôi đổi mới và dấn thân trong “nghiệp” viết. Mỗi lần gặp ông, chúng tôi như thấy mình được tiếp thêm năng lượng, cảm thấy yêu nghề, yêu cuộc sống hơn và tự nhủ mình phải cố gắng nhiều hơn nữa...

Là một nhà văn có thâm niên trong nghề nghiệp, tác phẩm của ông có thể chưa thật nhiều nhưng rất chắc chắn và chất lượng. Đặc biệt, khá nhiều tác phẩm của ông đạt giải thưởng của hội Văn học Nghệ thuật Hà Nội và các giải thưởng khác. Năm 2017, ông vinh dự được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật- Đây là sự đánh giá xứng đáng với những cống hiến không biết mệt mỏi của ông, cho nền Văn học Nghệ thuật nước nhà.

Tôi rất thích văn phong ngắn gọn, giản dị đôi khi pha chút dí dỏm của ông, nên thường tìm đọc các truyện của ông đăng trên các Báo, Tạp chí và viết lời bình. Không biết có phải để động viên tôi hay không, nhưng bài viết nào của tôi cũng được ông khen rằng, sâu sắc, tỉ mỉ và rất hiểu ông, hiểu những điều ông ký thác trong tác phẩm, rằng hiếm có người hiểu được ông như vậy… Bài gần đây nhất tôi viết cho ông, là viết về tiểu thuyết Người cũ. Đúng như tên tác phẩm, truyện viết về những chuyện cũ và… Người cũ. Đó là những chuyện vừa thật, vừa ảo ở Sân 51 Trần Hưng Đạo (Trụ sở Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam) liên quan đến những người cũ- Họ là những văn nghệ sĩ nổi tiếng: Nguyễn Tuân, Đặng Thai Mai, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Trần Hoàn, Vũ Giáng Hương “… Đã một thời gian dài phủ bóng xuống sân 51 Trần Hưng Đạo”. Nhưng không chỉ có thế, Người cũ kể về Những người chân đất đã làm nên lịch sử của huyện Thanh Trì (Ngoại thành Hà Nội), như ông Vũ Xuân Tròn và bao người nông dân khác; Truyện kể về Hai người lính Tây, rất am hiểu văn hóa Việt. Hay những chuyện kể về cô Ngưu- Người thiên cổ đầy oan khuất, nhưng cũng rất nhân từ…Tất cả những chuyện ấy, được nhà văn kể lại bằng giọng điệu nhẩn nha, điềm tĩnh, nhẹ nhàng, như một cuốn phim quay chậm về cảnh cũ, người xưa nay còn vang bóng.

Giống như con người thực ở ngoài đời, truyện của nhà văn Tùng Điển viết rất nhân văn. Trong Người cũ nhất là phần “Người thiên cổ”, đất nước Việt Nam, văn hóa của người Việt được nhìn nhận qua con mắt thằng Tây lùn một cách đúng mực và khách quan. Là kẻ đi xâm lược, nhưng nó luôn tự hào vì trong nó có một nửa dòng máu là người Việt. Cái cách nó xưng hô và cư xử với cha con cô Ngưu, kể cả việc nó trừng trị, xẻo tai thằng Nhỡ vì sự phản bội ân nhân, cùng lý lẽ của nó khi bị cô Ngưu xúc phạm, gọi nó là Tây lai… cho thấy nó rất hiểu văn hóa của người bản địa. Không có ý ngợi ca, nhưng ta vẫn phải thừa nhận, ở một khía cạnh nào đó, Tây lùn không phải là hoàn toàn xấu. Nó rất hiểu đạo lý của người Việt và biết cách cư xử đàng hoàng với kẻ yếu- cha con cô Ngưu. Điều đó cho thấy cách nhìn hiện thực tỉnh táo, công bằng, khách quan của tác giả. Tuy nhiên, kẻ đi xâm lược kết cục vẫn phải bị trả giá cho những tội ác mà chúng gây ra. Tây lùn cùng đồng bọn cũng bị tiêu diệt trong đêm ta tập kích sân bay Gia Lâm.

“Người thiên cổ” là phần lôi cuốn nhất của tiểu thuyết. Phần vì cốt truyện hấp dẫn, li kì, nhưng cái chính do giọng kể mạch lạc, khúc chiết, câu văn ngắn, câu kể và tả đan xen, khi thì dồn dập, lúc khoan thai làm cho mạch truyện được xâu kết chặt chẽ có lý, có tình. Ngôn ngữ nhân vật phù hợp, cách xưng hô (nó, ông, cô nhà, chú Huề…), cách gọi tên đúng với thành phần xuất thân của nhân vật (ông Chánh, cô Ngưu, bà Ngưu, cụ Nhẫn, cô Nụ, thằng Tây lùn, thằng sếp Vượng, thằng Nhỡ…) Tất cả đều góp phần khẳng định bản chất nhân vật. Đặc biệt, tác giả khá dụng công trong việc khắc họa ngoại hình, làm nổi bật tâm lý, tính cách nhân vật. Chân dung thằng Nhỡ là một ví dụ tiêu biểu. Nếu ai đã đọc, dù chỉ một lần, sẽ nhớ mãi chân dung của một kẻ phản phúc. Có thể nói, mọi chi tiết miêu tả ngoại hình của thằng Nhỡ, đều góp phần “tố cáo” tính cách không đàng hoàng của nó: “Mặt mỏng, môi mỏng, mặt mũi xiêu vẹo, con mắt láo liên luôn đảo quanh nhìn trộm, đôi tai mỏng dính vểnh lên rình rập, nhất là cái cằm cứ dài ra, nhọn như lưỡi cày…dáng người mỏng tong teo, khuôn mặt dài và nhọn như con bọ muỗm…” Đúng là: “Trông mặt mà bắt hình dong”, những đường nét “đặc biệt” ấy, được láy lại nhiều lần như chạm khắc vào lòng người đọc bộ mặt của một kẻ vong ân, bội nghĩa.

Là nhà văn có nghề, qua Người cũ, Tùng Điển làm sống lại một thời kì lịch sử đã qua, mà nhân vật phần đa là Người cũ- những đồng nghiệp hoặc anh em, họ hàng thân thuộc, đã gắn bó cùng Tôi qua những tháng năm chiến tranh gian khổ. Chỉ qua hơn trăm trang sách, quy mô tiểu thuyết không lớn, số lượng nhân vật không nhiều, nhưng kết cấu truyện chặt chẽ, điểm nhìn trần thuật đa dạng, tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét, phải chăng nhà văn đang hướng tới một sự cách tân trong tiểu thuyết?

Điểm qua về tiểu thuyết Người cũ để càng hiểu thêm con người nhà văn Tùng Điển - một người luôn được đồng nghiệp và mọi người tin yêu, ái mộ… Xin vĩnh biệt nhà văn. Mong ông siêu sinh tịnh độ, an nhiên miền cực lạc. Tôi tin nhân cách và gia tài văn chương mà nhà văn để lại, sẽ còn mãi với hậu thế và tiếp tục truyền lửa cho các thế hệ mai sau.

 

                                                        N.T.B

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter