Như là cách hoàn nguyên các giá trị đầu nguồn

               (Đọc “Tằng cẩu” và một số tiểu thuyết thế sự của Hoàng Thế Sinh)

                                                                        PGS.TS NGÔ VĂN GIÁ

1. Hoàng Thế Sinh là người có đến gần 40 năm dấn thân vào văn chương, viết nhiều tác phẩm với thể loại: thơ, truyện ngắn, ký, tiểu thuyết; nhưng thành tựu lớn nhất để làm nên tên tuổi nhà văn phải là tiểu thuyết. Tính đến thời điểm này, ông đã góp mặt với nền tiểu thuyết Việt Nam 10 tác phẩm, và chắc không dừng ở con số đó…

Nói riêng về tiểu thuyết, xét theo phạm vi hiện thực đời sống mà các tác phẩm đề cập, nhà văn đã bao quát nhiều không gian khác nhau: nơi chốn học đường (Thời hoa đỏ-1998), chiến tranh cách mạng (Rừng thiêng- 2008, Cánh đồng Chum mùa hoa ban- 2021); đời sống thế sự xã hội (Bụi hồ- 1992; Xứ mưa- 2000; Thiên thần Nam Mê- 2021; Thuốc phiện và lửa- 2014; Ma tiền- 2017; Chúa đất miền Khau Sưa- 2020; Tằng cẩu- 2023).  Ở đề tài nào ông cũng có đóng góp, nhưng có lẽ ngòi bút này dành tâm huyết nhất cho mảng tiểu thuyết thế sự xã hội.

Nhìn vào đời một người cầm bút, nếu thấy nhà văn tập trung ưu tiên cho mảng đề tài nhất định thì đó cũng là một chỉ dấu nói lên điều gì khác biệt. Với Hoàng Thế Sinh, con số 7/10 tiểu thuyết tập trung vào hiện thực xã hội đương thời cho thấy đây là một nhà văn nặng lòng với thời cuộc, có ý thức dấn thân, công khai bộc lộ trách nhiệm công dân trong tư cách một nhà văn đích thực. Tôi rất nghi ngờ tư cách một người cầm bút nào đó cho mình cái quyền khép kín trong cái tôi bản thể, tự trị mà không cần biết đến hiện tình thời cuộc và đất nước. Người viết có thể tha hồ thể hiện cái tôi, cái bản ngã nhưng với điều kiện phải biết tìm ra mối liên hệ chiều sâu với nhân quần, biểu đạt trạng thái tinh thần xã hội mà người viết thuộc về… Xét theo nghĩa ấy, nhà văn Hoàng Thế Sinh ngay từ đầu đã lựa chọn con đường dấn thân, tự nguyện đem ngòi bút của mình phụng sự cho sự tiến bộ xã hội.

2. Nhà văn Hoàng Thế Sinh trong cuộc đời là một người từng trải. Thời trẻ ông đi bộ đội, làm lính; sau về học đại học, ra trường làm nghề dạy học. Đã có mấy năm học cao học văn chương, nhúng mình vào môi trường thủ đô. Sau đó, ông có nhiều năm làm báo địa phương, trở thành một nhà báo bén nhạy, xuất sắc. Từ trong môi trường dạy học, làm báo, song hành với phận vị công chức, ông đã viết văn sớm và sớm có thành tựu. Sau khi nghỉ hưu khoảng già chục năm nay, ông dành toàn bộ tâm sức cho việc viết tiểu thuyết. Là người tự nguyện cắm chặt đời mình với mảnh đất Yên Bái để sống và viết, nên những cái viết của ông hoặc trực tiếp liên quan, hoặc gián tiếp xa gần với đất và người Yên Bái. Đương nhiên, qua Yên Bái để thấy miền rừng, thấy đô thị miền núi hiện đại, thấy cả nước. Chỉ có nhà văn mới có thể làm được điều tưởng như không thể này.

Tôi cứ nghĩ mãi và lấy làm thú vị về cách nhìn và cảm nhận của nhà văn Hoàng Thế Sinh về thực tại và con người, hay còn gọi là quan niệm nghệ thuật của nhà văn rằng: thế giới về cơ bản vẫn được hình dung theo tinh thần phân tuyến thiện/ ác, tốt/ xấu, tiến bộ/ lạc hậu…và cuối cùng cái thiện/ tốt/ tiến bộ chiến thắng, cái ác/ xấu/ lạc hậu bị trừng trị, đào thải.

Theo suốt các tiểu thuyết thế sự của ông, người đọc không khó nhận ra mấy điểm khá nhất quán này: i, hiện thực mà ông quan tâm miêu tả là không gian xã hội đô thị miền núi và các vùng lân cận, nơi đang biến đổi mạnh mẽ, mau chóng theo hướng kinh tế thị trường và đô thị hóa với tất cả cái hay dở của nó; ii,ở đấy, có hai lực lượng gần như đối lập: một bên là những người cán bộ, công an, những người trẻ tuổi, những già làng đi theo công lý và sự tiến bộ, và bên kia là những kẻ làm ăn bất chính (buôn thuốc phiện, phá rừng, kinh doanh bẩn, ăn chơi trác táng…). Phía bên này, luôn luôn xuất hiện một số nhân vật, đặc biệt là người nữ đẹp, nghèo khổ, thiện lương, khao khát tình yêu, khao khát đổi đời (Mỷ Châu trong Thuốc phiện và lửa, Nam Mê trong Thiên thần Nam Mê, Hoa Ban trong Tằng cẩu…). Phía bên kia, nổi bật là mẫu nhân vật tha hóa, làm ăn phi pháp, xưng hùng xưng bá, ăn chơi sa đọa, cướp hiếp gái đẹp nhà lành… (Sung trong Thuốc phiện và lửa, Ky Ky trong Thiên thần Nam Mê; Tắc Kin trong Tằng cẩu, Bá Quan trong Ma tiền…); iii, cả hai tuyến nhân vật được đặt trong sự vận động của câu chuyện, đi qua các biến cố và mâu thuẫn căng thẳng, đi qua nhiều mưu mô, tai ương và cái chết để bộc lộ phẩm hạnh và tính cách. Các nhân vật được xử lý theo mấy hướng: người đẹp thiện lương, người tốt được đền bù, may mắn tìm được hạnh phúc; những kẻ ác độc bị trừng phạt, thậm chí phải lãnh cái chết; một số kẻ ác hoặc sa ngã, tha hóa tuy cũng có lúc biết ăn năn, thức tỉnh nhưng đã muộn, đều có một kết cục không ra gì…

Ở đây, có một cách xử lý nhân vật rất đáng ghi nhận của tác giả Hoàng Thế Sinh: để cho nhân vật không rơi vào sự đơn giản, nhà văn đã miêu tả một số nhân vật như những tính cách phức tạp, đa diện, tránh một chiều. Xin lấy hai ví dụ, một thuộc nhân vật nam và một thuộc nhân vật nữ. Nhân vật Tắc Kin trong “Tằng cẩu” là kẻ giầu có, vợ và con định cư ở Mỹ, y sống một mình, của nả ngất trời, liên minh với bọn xã hội đen tác oai tác quái cả một vùng thị trấn miền núi, ăn chơi sa đọa, trác tang, bất chấp. Nhưng y đã yêu Hoa Ban một cách thật lòng, đau đớn. Do cậy vào tiền bạc, lại cấu kết với bọn xã hội đen, nên y yêu Hoa Ban không phải cách, hết theo kiểu “bắt vợ” rồi đến cưỡng hiếp, dọa dẫm, vây đánh tình địch đủ trò, cuối cùng thì vẫn thất bại. Trong suốt quá trình đó, y hiện lên như một nhân vật phức tạp, khi tệ bạc, khi ăn năn, lúc đáng trách lúc đáng thương, khi tỉnh táo, lúc vật vã hoang loạn. Kết cục là y thức tỉnh trong tinh thần Thiền và cái chết... Nhân vật nữ Thiên thần Nam mê trong tiểu thuyết cùng tên cũng được tác giả xây dựng theo cách thức như vậy. Nhân vật này vốn là một người đẹp nhút nhát, nhu mì, yêu chồng thương con, sau đó bị dụ dỗ, mua chuộc, bỏ chồng con đi vào con đường ăn chơi sa đọa, hư hỏng, ném thân vào những vụ làm ăn phi pháp. Sau đó, cô ta lựa chọn cách chuyển giới, sống trong mặc cảm tội lỗi, sám hối, đau đớn, khát vọng hoàn lương và sa vào cùng đường tuyệt lộ, cuối cùng là cái chết… Có thể xem đây là ý thức thể loại của nhà văn. Nhân vật tiểu thuyết, đặc biệt là nhân vật chính bao giờ cũng vươn lên trở thành nhân vật tính cách, tức là loại nhân vật phức tạp, đa diện, có sự chung sống của nhiều đối cực, có chiều sâu nội tâm, mang tính đối thoại (với các nhân vật khác, với chính mình, với cuộc đời…). Người đọc tìm thấy thêm kiểu nhân vật mang tính đa diện này ở các tiểu thuyết khác nữa như Bá Quan (Ma tiền), Sung (Thuốc phiện và lửa), Tử Pín (Chúa đất miền Khau Sưa)…

Tinh thần tự sự phân tuyến nhân vật, theo đó là người tốt/lương thiện tuy trải qua rất nhiều vùi dập, thua thiệt sẽ được đền bù và kẻ xấu/ác/bất lương cuối cùng bị trừng trị là một tâm thức bền bỉ của nhân loại, đặc biệt sâu đậm trong văn hóa Việt Nam. Trong tự sự dân gian truyền thống và tự sự trung đại, nhất là ở các truyện Nôm, tinh thần này đã được biểu đạt thành khát vọng công lý thường trực và phổ biến. Sang đến văn học hiện đại, các giá trị nhân bản đầu nguồn này không mất, mà thường được ẩn mình hoặc chuyển hóa sang các dạng thức khác, theo cách gián tiếp, đa dạng, phức tạp và phong phú hơn. Trong các tiểu thuyết thế sự của Hoàng Thế Sinh, nhà văn công khai đi theo tinh thần này một cách nồng nhiệt, nhất quán. Đặt trong bối cảnh xã hội hôm nay, khi mà cái xấu cái ác công nhiên hoành hành, khi khả năng quản trị xã hội không được như mong muốn, khi công lý bị lũng đoạn, đánh tráo dẫn đến tình trạng mất niềm tin ở con người, thì đây lại là cơ hội cho niềm tin vào công lý dân gian được dịp phục sinh. Những diễn ngôn trong đời thường, trên mạng xã hội, kể cả một số diễn ngôn chính thống xuất hiện những niềm tin mạnh mẽ, như những xác tín về luật nhân quả với những quả báo, trời phạt, trả nghiệp, ác giả ác báo, giời có mắt… Tinh thần này thể hiện mạnh mẽ, dứt khoát, bao trùm trong các tiểu thuyết của Hoàng Thế Sinh. Tôi gọi đây là tinh thần hoàn nguyên các giá trị nhân văn cổ điển đầu nguồn. Hoàng Thế Sinh đã biểu đạt tinh thần này một cách đầy nhiệt hứng, bền bỉ và sâu sắc.

3. Tiểu thuyết Hoàng Thế Sinh rất thành công trong việc tạo dựng “không khí” cho tác phẩm (có khi được gọi là không khí nghệ thuật, hoàn cảnh nghệ thuật). Không khí nghệ thuật tựa như hơi thở, nhịp điệu, mùi hương của sự sống được miêu tả. Nó bện vào câu chữ, nhân vật, không gian, hình ảnh, chi tiết. Không khí nghệ thuật chính là một trạng thái chung, nhiều khi chỉ cảm được mà không dễ gọi tên. Đây là một phẩm chất rất quan trọng của nghệ thuật tự sự, làm nên chất keo dính của tác phẩm đối với độc giả. Có những tiểu thuyết, truyện ngắn biến hóa, thông minh, các ngón nghề tân kỳ, nhưng đọc cứ thấy bị trơ trụi, giống như đi vào quả đồi trọc không có sinh khí. Hoàng Thế Sinh đã vượt qua được thử thách này.

Nhìn trên bề mặt của nghệ thuật tự sự, các tiểu thuyết của Hoàng Thế Sinh hay tập trung miêu tả mấy dạng khung cảnh: rừng núi rậm rạp, hiểm trở, nơi có thú dữ và kẻ xấu rình rập (đối nghịch với nó là dòng suối, phiến đá, gốc cây- những nơi chốn tình tự, yêu đương, làm tình); các hang động linh thiêng, có Thần rừng, có bùa yểm, có linh hồn các bậc Tiền hiền, Đức Phật… ngự trị. Đi liền với chúng là các loại âm thanh: tiếng suối chảy róc rách hiền hòa, tiếng thác đổ dữ dội; tiếng gọi, tiếng hú của người, tiếng kêu tiếng tác tiếng gầm của các loài động vật, tiếng vọng từ các vách đá dội lại, tiếng của chim chóc côn trùng… Tất cả hợp lại góp phần tạo dựng một không gian thiên nhiên núi rừng đa dạng, bí ẩn, vừa dung dưỡng sự sống vừa chứa đầy hiểm họa. Nhưng bên trong cuộc sống thiên nhiên còn có cuộc sống của con người. Nhà văn đã huy động rất nhiều các tri thức về văn hóa dân gian, tri thức folklore giàu có về các tộc người để tạo nên những không gian tinh thần, không gian xã hội đa dạng và đặc sắc. Đây là một đám cưới, kia là một đám ma; chỗ này là lễ hội vào mùa, chỗ kia là lễ hội cúng Thần rừng; chỗ khác là lễ hội hoa ban, lễ hội xuống đồng, lễ hội cúng cơm mới…, theo đó là các tập tục, ẩm thực, diễn xướng ca hát, nhảy múa, trang phục, tất cả đồng hiện. Hoàng Thế Sinh tỏ ra đặc biệt hiểu biết các bài hát, tục ngữ, dân ca của các tộc người, nổi bật là tộc người Thái (Tằng Cẩu), tộc người H’Mông (Ma tiền, Thuốc phiện và lửa) và tộc người Tày (Chúa đất miền Khau Sưa). Nhà văn huy động nguồn văn học truyền khẩu, lời nói thường ngày của các tộc người vào trang viết với một mật độ khá dầy, được trích dẫn, ghi chú kỹ lưỡng. Cũng có khi nhà văn tự sáng tác ra những bài hát theo phong vị của đồng bào các dân tộc khá nhuần nhuyễn, đến nỗi khó phân biệt giữa lời ca dân gian nguyên gốc và lời được viết mới. Điều này cho thấy, nhà văn rất có ý thức thâm nhập, học hỏi từ vốn văn hóa tộc người cả trong truyền thống và cả trong cuộc sống thường nhật. Nhờ vốn liếng giàu có này, nhà văn đã dựng lên một thứ phong vị núi rừng gắn liền với mỗi tộc người thật độc đáo, với nhiều trường đoạn hấp dẫn bạn đọc.

Cũng xin nói thêm, do tự nguyện nhập cuộc vào đời sống đương đại, nên trong tiểu thuyết của Hoàng Thế Sinh xuất hiện vô số những hình ảnh, nhân vật, chi tiết của đời sống đô thị hiện đại miền núi. Chỗ này là khu biệt thự, khu du lịch sinh thái; chỗ kia là nhà hàng, quán nhậu; chỗ nọ là khách sạn, nhà nghỉ; chỗ khác là các quán bar, vũ trường… Ở những nơi đó là các cuộc gặp gỡ, bàn mưu tính kế, giao dịch buôn bán, tiệc tùng, ăn chơi… theo hướng mờ ám, sa đọa, trác táng. Tác giả rất thích miêu tả những đám đông uống rượu, nhậu nhẹt, với những thứ ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ, hát hò, hú hét… của kẻ say hoặc mượn rượu lắm khi vô thưởng vô phạt, nhưng cũng nhiều khi phiền toái, cạnh khóe, chửi bới, bạo lực với nhiều hệ lụy. Những con người gắn liền với các nơi chốn đó cũng biến đổi theo hướng hay ít dở nhiều, với nhiều nguy cơ hư hỏng, biến chất. Nhà văn đã cho thấy một hiện thực miền núi đang chuyển mình mau lẹ, dữ dội, phức tạp, nhiều bất an bất trắc và được mất khôn lường, có khả năng đánh động lương tri người đọc.

***

Nhìn dọc lên phía Bắc sông Hồng hiện nay, xét riêng thể loại tiểu thuyết, tôi thấy có hai cây bút chuyên tâm viết về đất và người miền núi và thực sự có đóng góp vào nền văn xuôi đương đại: Hoàng Thế Sinh và Đoàn Hữu Nam. Các ông đã đằm mình vào thổ nhưỡng xã hội, văn hóa, lịch sử vùng Tây Bắc với tất cả tài năng và tâm huyết, với cả sự chuyên tâm bền bỉ đáng trân trọng. Với riêng Hoàng Thế Sinh, có một ý hướng mà anh đang để tâm theo đuổi: tiểu thuyết sinh thái. Loại tiểu thuyết này tập trung vào việc biểu đạt các vấn đề thuộc môi trường, nơi con người thuộc về, cộng sinh, đang bị trả giá và cần phải cấp thiết điều chỉnh nhận thức cũng như ứng xử. Nó không chỉ là việc ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên; cũng không dừng ở việc tố cáo các nhận thức sai lệch, các hành vi xâm phạm, hủy diệt môi trường; cũng không chỉ phản tư lại các quan niệm truyền thống mà nó đòi hỏi một nhận thức luận có tính triết học: phê phán chủ nghĩa nhân loại trung tâm (Anthropocentrism- với tinh thần lấy con người làm trung tâm, thiên nhiên ở vị thế phụ thuộc, phương tiện) để chuyển sang khế ước: con người chung sống hài hòa với môi trường tự nhiên. Tiểu thuyết “Chúa đất miền Khau Sưa” đã ghi dấu sự chuyển hướng bước đầu của Hoàng Thế Sinh. “Tằng cẩu” cũng là một bài ca về tình yêu lứa đôi chan hòa tình yêu phong cảnh, núi rừng và văn hóa bản địa. Cảm hứng sinh thái này cũng đã thấy bàng bạc ít nhiều trong một số tiểu thuyết khác của nhà văn… “Ăn của rừng rưng rưng nước mắt” như một minh triết đầu nguồn chẳng phải cũng là một nhiệt hứng biểu đạt của nhà văn đó sao!

Hoàn nguyên các giá trị nhân bản đầu nguồn trong những biểu đạt tự sự đa dạng chính là tinh thần tiểu thuyết đặc sắc của Hoàng Thế Sinh.

                                                                                       N.V.G

 

 

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 70<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter