Tình yêu thương ở khắp mọi nơi

Thế Quynh

(Đọc Tập truyện ngắn “Vách gỗ” của Nguyễn Thị Ngọc Yến- Nxb Hội Nhà văn- Quý IV/2021) 

Tôi lấy câu chú “Baba nam Kevalam” (nghĩa là: Tình yêu thương ở khắp mọi nơi) trong truyện ngắn “Vũ điệu Kaoshikii” làm tên cho bài viết này. Mười hai truyện ngắn, “Vách gỗ” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn- năm 2021) là sự tiếp nối tấm lòng cảm thương sâu sắc với những phận người của cây bút Nguyễn Thị Ngọc Yến.

Nếu như ở “Mùa xa”, hình ảnh người phụ nữ trở thành chủ đạo nhận được bao cảm thông của tác giả thì ở tập truyện này vẫn được quan tâm miêu tả như gam màu chính của bức tranh tổng thể. Họ thuộc nhiều thành phần xã hội: nông dân, trí thức, doanh nhân với đủ các thế hệ già có, trẻ có và sinh sống ở mọi nơi từ miền núi, đồng bằng đến chốn thị thành. Bản tính yêu chồng, thương con, thương người như thể thương thân đã trở thành căn cốt lưu truyền từ bà sang cháu, từ mẹ sang con. Thật cảm động khi ta chứng kiến tình cảm sâu nặng, đức hy sinh của những người bước sang tuổi xưa nay hiếm. Một cặp vợ chồng già (Đôi dép) thương nhau rất mực, biết chiều nhau từ bữa ăn, chậu nước tắm đến sở thích nhỏ nhất là đôi dép “giống y chang đôi dép thời còn trẻ mà bà vẫn thường ao ước”. Không những thế còn hiếu thuận với bố mẹ chồng, chan hòa với hàng xóm để “Mọi điều lành trong nhà cũng theo ông mà rủ nhau tìm đến”. Chính cách sống của họ là bài học quí có tác dụng giáo dục con cái biết thương yêu, đùm bọc nhau. Dù đôi dép khiến bà gặp nạn ngã bong gân cổ tay song “đôi dép này gắn với tôi và ông nhiều kỷ niệm lắm. Tôi không bỏ nó đi được”. Và đôi dép đã trở thành kỉ vật thiêng liêng, một biểu trưng về lẽ sống ở đời “Bà nghĩ đến một ngày đôi dép xốp màu nâu của bà sẽ ngay ngắn nằm sát cạnh đôi dép nhựa giả da của ông trong chiếc tủ kính trên tầng thượng nhà thằng Linh”. Có những người số phận không được may mắn nhưng phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ vẫn là nét đặc trưng ở họ. Bà vợ trong “Cái nợ nhà chồng” có đức lang quân do bất mãn với đời, với người mà trở thành đệ tử của thần lưu linh. Cắn răng, có lúc sự chịu đựng vượt ngưỡng đã phải thốt lên “Trời đất ơi, sao số tôi lại khổ thế này. Sao ông không chết đi để mẹ con tôi được nhờ”. Nhưng khi ông chồng chẳng may mất vì ngộ sát trong một cơn say, “ai cũng nghĩ cuộc đời bà từ nay sẽ phần nào thanh thản, đỡ vất vả đi ít nhiều” thì ngược lại bà “lầm lũi và khắc khổ hơn trước”. Bởi vì “Với mọi người ông chỉ là cái gai nhổ sớm được ngày nào tốt ngày ấy, nhưng với bà ông lại là một cái gai mà không có gì có thể thay thế được…”.

Tác giả văn xuôi Nguyễn Thị Ngọc Yến

Đối tượng được nhắc đến nhiều và dễ gây ấn tượng là lớp người trẻ cùng trang lứa với tác giả. Đặc điểm chung của lớp người này là khát khao yêu thương và luôn hướng tới một tình yêu đích thực. Ai đã từng yêu và được yêu mới thông cảm với nỗi buồn, cảm giác cô đơn khi đêm xuống của những cô giáo cắm bản như Mai, Hiền (Sương núi) hay sự giận hờn do ngộ nhận bị bội bạc của Di (Tiếng đêm). Cám dỗ vật chất cùng sở thích phụ nữ vẫn được coi là nguyên nhân dẫn đễn đổ vỡ hạnh phúc song cây bút Nguyễn Thị Ngọc Yến không nặng miêu tả mà tập trung làm rõ khát vọng yêu thương cùng vẻ đẹp tâm hồn nhân vật. Cô Diễm (Café tím) từng cặp bồ với đại gia, lấy chồng như một nghĩa vụ trả ơn vẫn nhận ra tình yêu chân thật nơi Bảo. Giữa xô bồ tình và tiền, cô đơn và trống rỗng Diễm đã ý thức “Tôi không muốn đánh mất chút niềm tin mới nảy nở nơi Bảo với đàn bà. Tôi càng không muốn mình là người phụ nữ cuối cùng mà Bảo căm ghét. Tôi muốn quá khứ của tôi mãi là bí mật với cả Thụy và Bảo”. Rồi đó là Mi (Đóa mi trắng), My (Bóng hạnh phúc), Ái Thy (Vũ điệu Kaoshikii). Mỗi người mỗi cuộc sống riêng song đều rơi vào éo le. Nếu không gặp những ông chồng ghen tuông, gia trưởng, cặm cụi kiếm tiền mà quên lãng nghĩa vụ gia đình thì cũng lại thiếu niềm tin, coi vợ “như một thứ trang sức di động và quan trọng là biết đẻ cho Quốc một cậu con trai”. Trong hoàn cảnh đó người phụ nữ sớm ý thức được hạnh phúc với họ chỉ như một cái bóng “Càng sống với Huấn, My càng hiểu rằng tiền không phải là tất cả, bản thân cô còn khao khát quá nhiều thứ và điều mà My cần ngoài một gia đình đúng nghĩa còn là sự cảm thông và chia sẻ đến tận cùng” (Bóng hạnh phúc). Và “Cô không thể tiếp tục cuộc sống hôn nhân mà chỉ mình cô hết lòng, còn người đàn ông của cô chỉ xem cô như một phép toán trong cuộc đời” (Đóa mi trắng). Kết cục tất yếu là chia tay hoặc lại có chuyện ngoại tình, tổ ấm gia đình tan vỡ. Bởi cảm thương sâu sắc với những phận người mà ta luôn thấy cây bút Nguyễn Thị Ngọc Yến thường kết thúc truyện bằng nhãn quan tươi sáng: Người dì (Mùa xa) dù là nạn nhân của thói bạo hành vẫn khước từ tình cảm của Nam để quay về với người chồng vũ phu, hay ghen tuông vì ước muốn của bé Na “Gia đình mình mãi hạnh phúc”. My quay lại với Huấn (Bóng hạnh phúc), Mi tìm thấy niềm tin nơi đứa con chồng (Đóa mi trắng), Di nhận ra tình yêu nơi Phúc (Tiếng đêm)… Cũng có bi kịch nhưng là bi kịch lạc quan như trường hợp Ái Thy (Vũ điệu Kaoshikii), vì sau đổ vỡ là sự sám hối để hướng thiện “Thy phải trả giá cho tất cả những sai lầm và ích kỷ. Thy phải tự gỡ bỏ cho mình những dằn vặt, đau khổ. Thy phải sống như bao người bình thường khác, phải có ngày có đêm. Thy phải là một người mẹ thực sự, biết hy sinh và dám thay đổi”. Đẹp và trong sáng khi tác giả đưa người đọc về với tình người nơi non cao, thôn ổ. Phải chăng chốn này còn ít chịu tác động của mặt trái kinh tế thị trường, là căn cứ vững chắc của những giá trị đạo đức truyền thống đang có nguy cơ băng hoại. Một cô Mây (Khói xanh) tận tình chăm sóc người chồng mới cưới sống thực vật sau tai nạn, không nỡ bỏ đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Rồi Pùa (Vách gỗ) theo tiếng Tày là “nâng đỡ” thực sự bộc lộ bản chất như tên gọi. Cô nêu tấm gương hy sinh vì hạnh phúc người khác: về làm vợ hờ của Nhếnh bởi thương Nín, muốn giúp cho họ có đứa con nối dõi dù chịu nỗi bẽ bàng; lặn lội lên núi cao hái cây lá cùng chính ngón tay út của mình đốt thành tro làm thang thuốc chữa vô sinh. Họ- nhân vật phụ nữ trong truyện đã làm cho “Cả một vùng trời yêu thương đang hiện ra trước mắt”.

Những người đàn ông trong “Vách gỗ” cũng được tác giả miêu tả tương đối kỹ như một tương phản tôn vẻ đẹp nữ tính. Đọc truyện ta thấy được phần nào cách nhìn, đánh giá họ qua trải nghiệm cuộc sống của Nguyễn Thị Ngọc Yến. Có đủ loại người: lọc lừa, toan tính như Phong, Vỹ; độc đoán, gia trưởng như Hưng; ham kiếm tiền mà quên bổn phận làm chồng như Huấn, Quốc; tràn đầy yêu thương như ông Thành, Phúc, Nín, Tráng, Chu, Khởi, Nam, Bảo… Xuất hiện ở đây, họ là nguyên nhân của khổ đau, là ân nhân và còn là đấng mày râu biết trân quý tình yêu cùng cái đẹp. Khó ai có thể quên được bộ mặt trâng tráo Sở Khanh của Vỹ “trăng hoa, cục cằn, thô lỗ(Vũ điệu Kaoshikii) hay tính ích kỷ của Phong khi đặt cái tôi cá nhân cao hơn tất thảy Phong chưa từng yêu cô, chỉ là bản năng thích chinh phục của đàn ông đối với người đàn bà hấp dẫn. Người Phong yêu không phải là vợ, cũng không phải là cô, chỉ là bản thân Phong mà thôi(Bóng hạnh phúc). Và vô cùng cảm phục những người chồng, người bạn, người yêu biết dành cho “phái yếu” sự bao dung, tôn trọng. Giữa bao “cạm bẫy người” giăng ra với giới nữ thì việc tôn trọng tình cảm, không lợi dụng để thỏa mãn khát khao thể xác của Bảo (Café tím) hay Tráng (Khói xanh) là điển hình hiếm. Bên cạnh Hưng (Đóa mi trắng), Huấn (Bóng hạnh phúc), Quốc (Vũ điệu Kaoshikii)… muốn vợ chồng “gắn bó với nhau bởi một sự giàng buộc” vô tình biến người phụ nữ thành kẻ phụ thuộc thì còn có nhiều bậc nam tử biết tôn trọng mà góp phần nâng cao phẩm giá con người. Từ lớp người già như ông Thành (Đôi dép) thương yêu, chăm sóc vợ hết mực đến Nhếnh (Vách gỗ) không vì lời nguyền gia tộc mà phụ bạc bạn trăm năm; Khởi (Khói xanh) dù xót xa cho thân phận mình vẫn “không được phép để cho Mây khổ, cô ấy đã đau khổ quá nhiều. Khởi phải tìm cho Mây một chỗ dựa vững chắc”; hay Phúc (Tiếng đêm) bị người yêu hiểu lầm khi đi làm nhiệm vụ mật của ngành công an nhưng luôn chỉ có một câu duy nhất “Em không thể ngăn anh đừng yêu em”.

Có truyện (Giải thoát) tưởng như nằm ngoài chủ đề chung toàn tập song lại hướng ta đến vấn đề xã hội đang quan tâm: kinh tế thị trường và thói gian trá bất chấp đạo đức kinh doanh chỉ vì lợi nhuận. Câu chuyện kể về Hắn- có bảng thành tích học tập không tồi nhưng lối sống lập dị khác thường. Bị đẩy vào bệnh viện tâm thần và không còn cơ hội quay trở lại trường học. Đi làm công nhân may cho Công ty MELLY nhờ khéo tay, sáng ý mà được khen về chất lượng cùng công suất làm việc. Đề xuất “Phải thay đổi mẫu mã sản phẩm” đã đưa Hắn đến với vị trí người tạo mẫu. Tiếp đó chiêu thức ăn cắp công nghệ, sản xuất hàng nhái giúp mang lại lợi nhuận cho công ty cũng khiến con người thay đổi “Hắn đã bắt đầu đi thẳng lưng hơn, nói to hơn và thoải mái thể hiện quan điểm”. Song “Sự nuông chiều, thiên vị dễ giết một con người hơn bất cứ sự độc ác nào”. Mọi người xa lánh, không một ai chia sẻ, Hắn cảm thấy bị cô lập. Thiên lương thức dậy, Hắn không muốn mình là một kẻ ăn cắp, phải bắt đầu lại. Giải thoát bằng cách bỏ việc, nhân vật tự đặt câu hỏi “mình điên hay mọi người điên”. Dường như câu trả lời đã có sẵn “Nếu biết lúc nào mình điên, lúc nào mình tỉnh là người bình thường. Còn không bao giờ biết mình điên thì mới đúng là điên”. Dụng ý thức tỉnh lương tri, hướng con người tới lối sống trung thực trở thành đích đến của tác phẩm.

Tình thương yêu là những giá trị gốc rễ của con người, là nhân bản. Bấy naу nó đang bị lớp bụi của tham ѕân ѕi, của bon chen, tranh quуền đoạt lợi che phủ. Lớp bụi ngàу một dàу lên khiến nhiều lúc chúng ta quên mất những điều tốt đẹp đó ᴠẫn hiện hữu trong mình. Chỉ khi lớp bụi được phủi đi, những giá trị nhân bản đó mới lại được khơi dậу. “Văn học là nhân học”, bằng việc xây dựng hình tượng nghệ thuật sẽ góp phần hoàn thành sứ mạng đó. Và những truyện ngắn của cây bút Nguyễn Thị Ngọc Yến đang là một đóng góp.

 

T.Q

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter