Để tăng cường sức hấp dẫn của văn học viết về chiến tranh

LÊ PHONG

Trên phương diện đề tài, chủ đề, cảm hứng…, văn học viết về chiến tranh cách mạng là một bộ phận lớn, quan trọng, cấu thành nên nền văn chương Việt Nam. Nhìn lại lịch sử văn học hiện đại Việt Nam, ở mặt tiền của nó vẫn là những tác giả, tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng. Tuy nhiên, có một thực trạng, diễn ra sau khi chiến tranh kết thúc, nhất là khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, đó là văn học chiến tranh dần giảm đi sức hút đối với công chúng, đặc biệt là giới trẻ. Nguyên nhân nào dẫn đến điều đó? Đồng thời, để dòng văn học này trở lại, đến gần hơn với công chúng, cần phải làm gì?

Sức hấp dẫn của văn học viết về chiến tranh cách mạng bị giảm sút có nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân chủ yếu, quyết định đến cấu trúc của hệ đề tài văn học đương đại chính là sự mở rộng trường nhìn và mối bận tâm của con người trước đời sống xã hội. Cuộc sống thời hậu chiến đã đặt con người vào muôn vàn câu chuyện, gắn chặt với cá nhân, đời tư, thế sự. Cảm hứng lớn mang tầm vóc sử thi gắn với vận mệnh của quốc gia dân tộc cũng quan trọng như những biến cố của đời sống riêng tư, cá thể. Vì thế, văn chương tự thấy mình phải đi sâu hơn, mở rộng hơn vào những địa hạt đã một thời bị gác lại, một thời phải nhường cho những câu chuyện lớn. Đổi mới, mở rộng, tự do và dân chủ hóa đã tạo đà cho văn chương nghệ thuật tiến đến các không gian phản ánh mới. Trên phương diện nguyên lí, văn học trở về ngôi nhà bản thể của mình (một hình thái ý thức xã hội đặc thù) với sứ mệnh phụng sự các giá trị thẩm mĩ. Văn học nghệ thuật hậu chiến đã tiến hành song song hai quá trình: một là: nỗ lực chiếm lĩnh thực tại mới; hai là: tái nhận thức, tái diễn giải thực tại cũ. Cùng với đó, hình thức nghệ thuật cũng đa dạng hơn với các phương thức biểu đạt sinh động, phù hợp với cảm quan của con người hậu chiến. Bản thân văn học viết về chiến tranh cũng có những bước chuyển khi lặng lẽ, âm ỉ từ trước giải phóng, đến mãnh liệt sau ngày đất nước thống nhất. Chiến tranh lúc này gắn với những biến cố, những câu chuyện cá nhân, thân phận con người, những bi kịch và di chứng của nó. Vẫn mang âm hưởng hào hùng, nhưng, xen lẫn dòng cảm hứng đó là nỗi đau, cái chết, những bi thương của dân tộc, thân phận, những điều mất đi và cả những gì còn lại đầy ám ảnh. Trong một loạt tác phẩm như Thời xa vắng, Nỗi buồn chiến tranh, Chim én bay, Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc, Thời của thánh thần, Bến không chồng, Bến đò xưa lặng lẽ, Miền hoang, Mình và họ, Xác phàm, Con chim joong bay từ A đến Z, Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 (tiểu thuyết), Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Tướng về hưu, Người sót lại của rừng cười, Mặt trời bé con của tôi, Mười ba bến nước, Nhiệt đới gió mùa, Âm thanh của kí ức, Sóng gió Ô Cấp, Những bóng người trên mặt đất, Đỉnh khói (truyện ngắn)… có thể nhận ra sự dịch chuyển quan trọng có tính xu hướng của văn học viết về chiến tranh. Ở đó, số phận con người trước biến cố chiến tranh hằn lên bởi biết bao đau thương và mất mát. Chiến tranh trở thành một bi kịch của thời đại, của dân tộc và của mỗi cá nhân. Phải thật khách quan để nhìn nhận rằng, vì nhiệm vụ chính trị, để trở thành “một nền văn nghệ tiên phong chống đế quốc”, văn học trước 1975 đã gác lại nhiều phẩm tính đặc trưng của mình. Ở phương diện đề tài, cảm hứng và phương thức thể hiện, văn học sử thi hướng đến các phạm trù chung của hệ giá trị dân tộc - trong tình thế đối đầu với kẻ thù xâm lược, cần phải chiến đấu và chiến thắng. Dẫu sao, những tác phẩm vừa nêu cũng đã để lại dấu ấn quan trọng, nằm ở phía mặt tiền của đời sống văn học đương đại, trở thành một di sản của lịch sử văn chương (chưa hoàn kết). Tuy nhiên, như đã nói, so với sức hút mãnh liệt của các đề tài khác như đời sống hiện đại, giới trẻ, tình yêu, các khuynh hướng xã hội, các trào lưu mang tính giải trí, làm ăn buôn bán, hội nhập, mở cửa, toàn cầu hóa, khoa học, kĩ thuật, công nghệ…, dòng văn học viết về chiến tranh quả thực chưa sôi nổi bằng.

Văn chương nghệ thuật chú ý nhiều hơn đến những mảng hiện thực bên ngoài chiến tranh là một tất yếu của lịch sử xã hội Việt Nam thời bình. Lí do của nó không gì khác chính là mối bận tâm thường trực của cộng đồng. Họ có nhiều điều phải nghĩ, phải làm, phải đối diện hơn trong cuộc sống hiện tại. Chính xác, họ bị cuốn đi trong dòng chảy hối hả của đời sống. Hệ quả của nó là họ không còn thời gian cho quá khứ, cho những kí ức bi tráng. Không phải họ lãng quên, mà đó là quy luật tất yếu của cuộc sống đương đại, vốn phức tạp, vị kỉ và không kém phần đỏng đảnh… Đặc biệt, như đã nói ở trên, một khi, văn học nghệ thuật trở lại với yếu tính của mình, thì những đòi hỏi khác (không thuộc về yếu tính) sẽ dần bị khuất lấp. Kinh tế thị trường cùng với áp lực mưu sinh và vô vàn những bận tâm cốt thiết khác đã kéo con người khỏi vùng kí ức chiến tranh. Một phần khác, có lẽ là ứng xử của chính những người đi qua chiến tranh - họ muốn lịch sử tạm nguôi ngoai đi để các vết thương cơ hồ có thể liền sẹo. Tuy nhiên, dù thế nào, đặt trong cấu trúc văn học đương đại, diễn ngôn chiến tranh đã có phần bị lấn át trước các mảng đề tài khác. Bạn đọc xem ra cũng không mặn mà với dòng văn học này. Trong số công chúng của văn học, giới trẻ dường như là điển hình nhất cho việc rời xa đề tài, cảm hứng chiến tranh.

Làm sao để văn học viết về chiến tranh đến gần hơn với công chúng, nhất là giới trẻ? Câu hỏi này có lẽ là nỗi bận tâm đau đáu của hầu hết các nhà văn viết về mảng đề tài này. Từ góc độ quan sát của mình, với những biểu hiện khi trên diện rộng, khi chú tâm vào một vài tiêu điểm, chúng tôi nhận thấy một vài động thái cần thiết sau đây:

Văn học viết về chiến tranh phải thay đổi góc nhìn, điểm nhìn để tiệm cận với những câu chuyện của chiến tranh và đời sống. Có thể thấy rõ, một bộ phận độc giả vẫn cho rằng, văn học viết về chiến tranh vẫn là câu chuyện cũ, với những cuộc hành quân, những trận đánh lớn nhỏ, bom đạn, súng ống, cái chết, phe ta, phe địch, ta thắng, địch thua… Văn học viết về chiến tranh trong bối cảnh đương đại cần đến gần hơn để nhận ra thân phận con người, thân phận dân tộc trong cuộc chiến ấy. Không chỉ là bom đạn, những trận đánh, những cuộc hành quân, mà đó là hơi thở của đất, của rừng, của người, của làng quê và thành thị, của người nơi tiền tuyến hay kẻ ở hậu phương, của kí ức và lịch sử, của thân phận và diện mạo, cá nhân, gia đình và thế hệ, của các giá trị nhân văn, những còn mất khi đi qua chiến tranh, những di chứng, dư âm của cuộc chiến… Từ cuộc chiến ấy, văn học giúp con người hậu chiến nhận ra giá trị của tồn tại, giá trị của hòa bình, những điều có thể đánh đổi và những gì không thể đánh đổi. Tại sao Nỗi buồn chiến tranh cho đến giờ vẫn là tượng đài của văn học Việt Nam viết về chiến tranh thời hậu chiến? Có lẽ, một câu trả lời quan trọng chính là tác phẩm chạm đến những giá trị nhân văn, nhân bản phổ quát của con người khi đối diện và đi qua chiến tranh, muôn nơi - muôn thuở (chiến tranh có lẽ là một trong những biến cố dai dẳng nhất của xã hội loài người). Tình thế của con người hậu chiến quy định cái nhìn của họ đối với thực tại, quá khứ và cả những dự phóng ở tương lai. Sẽ thật khó đòi hỏi một đứa trẻ rời xa màn hình tivi, máy tính, điện thoại, iPad… để tập trung vào một cuốn sách viết về cuộc chiến tranh mà nó ngỡ chỉ có trong thần thoại. Với người lớn cũng vậy, những bận bã của đời sống ngay thì hiện tại, những đòi hỏi trực diện của bản thể đã xếp việc đọc sách, đọc tác phẩm văn học, đọc văn học chiến tranh vào những lựa chọn thứ yếu. Tuy nhiên, sự thay đổi điểm nhìn của văn học, chiếm lĩnh thực tại chiến tranh bằng con mắt bên trong, phía bên kia hay mặt sau của những thực tại đời sống và thân phận dường như vẫn mang được hơi thở đầy đặn của đời sống. Từ Thời xa vắng của Lê Lựu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Bến không chồng của Dương Hướng đến Thời của thánh thần (Hoàng Minh Tường), Mình và họ (Nguyễn Bình Phương)…, chiến tranh đã được nhìn khác đi xoay quanh cái trục cốt yếu nhất là thân phận, diện mạo con người.

Toạ đàm Viết về chiến tranh thời đổi mới do Tạp chí Văn nghệ Quân đội phối hợp với Tạp chí Nghiên cứu Văn học

Cùng với việc tiếp cận ở những góc độ khác, gần hơn, thực hơn, là việc thay đổi phương thức phản ánh, phương thức thể hiện. Có thể nhận ra, văn học sử thi thời chiến vẫn lấy mô hình phản ánh hiện thực xã hội chủ nghĩa, lấy cảm hứng hào hùng, giọng điệu ngợi ca - tôn vinh, lấy cơ chế nêu gương - điển hình hóa, hình tượng kì vĩ, ngôn ngữ khắc tạc, màu sắc chói sáng rực rỡ, tinh thần lạc quan cách mạng… làm “nguyên lí mĩ học” chung cho văn học (xem thêm: Chu Văn Sơn, “Thế hệ nhà văn sau 1975, họ là ai?”, in trong Thế hệ nhà văn sau 1975: diện mạo và thành tựu, Nxb Hội Nhà văn, 2016). Cách làm ấy sẽ ít hiệu quả trong bối cảnh văn học đương đại bởi chính đặc tính phức tạp, bề bộn của đời sống. Đến gần hơn với thế sự, đời tư nghĩa là phải giảm đi khoảng cách sử thi, cảm hứng sử thi, để nói bằng lời nói hàng ngày, về những câu chuyện hàng ngày, trong đó có câu chuyện chiến tranh. Một luận điểm khá quen thuộc với nhiều người trong giới cầm bút - sáng tác, nghiên cứu phê bình, đó là văn học hậu chiến thay vì kể cái gì đã lưu ý hơn đến việc kể như thế nào. Chính xác đó là câu chuyện biểu đạt. Chiến tranh có thể chỉ là cái cớ, là sự khơi mào hay một mạch truyện trong cấu trúc nghệ thuật. Cũng có khi, chiến tranh giữ vai trò là một biến cố, một hạt nhân định hình thế giới nghệ thuật. Nhưng, thế giới đó đã diễn biến theo một cấu trúc vô cùng phức tạp, đa nghĩa, cũng có khi là trào tiếu hay phúng dụ, giải thiêng hay tái nhận thức, liên văn bản, liên văn hóa, liên chủ thể… Phương thức phản ánh của văn học hậu chiến đã khơi dậy tinh thần chủ thể trong các hoạt động sáng tạo. Bởi thế, khi chủ thể là con người đương đại, thì “cảm niệm về thực tại” (Chu Văn Sơn) của anh ta đã khác rất nhiều so với thế hệ nhà văn - chiến sĩ của giai đoạn trước. Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương… chẳng thể viết giống Nguyễn Minh Châu, cũng như Đinh Phương, Nguyễn Thị Kim Hòa, Trịnh Sơn, Huỳnh Trọng Khang, Minh Moon… hẳn sẽ mang tâm thế khác các bậc cha chú khi tiếp cận và biểu hiện về đề tài chiến tranh.

Văn học của chúng ta đã có giai đoạn thể hiện chiến tranh một cách hào hùng, đậm màu sắc sử thi trên bình diện rộng lớn mang tầm vóc quốc gia, dân tộc. Như quy luật bù trừ, khi cuộc chiến đi qua, khi con người có thời gian để ngẫm lại quá khứ, soi chiếu quá khứ một cách kĩ lưỡng hơn, những góc khuất, những điều bình dị, bé nhỏ, những gì đã từng bị lãng quên trong chiến tranh cần được nhìn nhận trở lại. Bên cạnh đó, cũng cần phải thấy rằng, chiến tranh là một câu chuyện của quá khứ, nhưng chưa khép lại, nó vẫn hiện diện trong đời sống hôm nay. Vì thế, viết về chiến tranh không thể tách rời những vận động của xã hội đương đại. Nghĩa là, chiến tranh đang tham dự vào việc kiến tạo nên diện mạo, thân phận của con người đương đại, đang đi cùng những câu chuyện thế sự đời tư hôm nay. Con người đương đại, nhất là giới trẻ, sẽ không thấy xa lạ với những câu chuyện chiến tranh nếu họ nhận ra rằng sự hiện diện của họ là kết quả của một Việt Nam đi ra từ cuộc chiến, đi ra từ những năm tháng đau thương mà kiêu hãnh. Lí tưởng, niềm tin hay khát vọng sẽ được kiến tạo, được định hình thế nào ở giới trẻ có một phần rất quan trọng từ việc họ ý thức được quá khứ đã can dự đến sinh mệnh, thân phận của họ. Từ đó, di sản chiến tranh sẽ chi phối đến thái độ và sự lựa chọn của giới trẻ. Cơ hội của văn học viết về chiến tranh nằm ở đấy, trong những động thái chủ động đến gần hơn với cấu trúc tâm lí, tinh thần của con người đương đại. Trong một cảm giác có tính chủ quan, tôi cho rằng, thế hệ trẻ hôm nay có thể sẽ thấy bóng dáng của mình trong Đợi đến lượt của Đinh Phương, Mộ phần tuổi trẻ của Huỳnh Trọng Khang, Hạt hòa bình của Minh Moon… Bởi lẽ, họ - những người trẻ tuổi, đang cùng nhau hít thở trong sinh quyển đương đại và trình bày cảm nhận của mình về chiến tranh theo cách mà họ hình dung.

Văn học viết về đề tài chiến tranh có lợi thế từ quá khứ, là kí ức của cả dân tộc. Trong tình thế hiện tại, việc giảm sút sức lôi cuốn, hấp dẫn là một thực trạng. Để lấy lại sự yêu mến, gần gũi, quan tâm của người đọc, không gì khác là phải tự thay đổi, phải tiệm cận hơn các giá trị thực hữu của đương đại. Từ chiến tranh, thông qua chiến tranh, nhà văn viết tiếp những câu chuyện của đời sống, đó là một con đường để đến với bạn đọc, nhất là giới trẻ hôm nay.

 

L.P

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter