MỘT GÓC NHÌN VỀ TRUYỆN NGẮN “VÁCH GỖ” CỦA NGUYỄN THỊ NGỌC YẾN

HÀ LẦM KỲ

 

“Vách gỗ”- một truyện ngắn, được in trong tập sách cùng tên “Vách gỗ”, NXB Hội Nhà văn 2021 của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Yến.

Dòng họ Hoàng Văn (Dân tộc Tày) giao trọng trách cho Nhếnh, đích tôn duy nhất, là phải có con trai để không thể đứt mạch cây gia phả. Nhếnh còn trẻ, lần chần, nhưng vợ Nhếnh là Nín, với tư cách dâu trưởng tộc thì lại lặng lẽ “nằm đếm tiếng gà cho đến sáng”, nghĩ cách bù đắp sự vô sinh mà vẫn đáp ứng yêu cầu của các bô lão gia tộc. Và Nín đã tìm ra cách tháo gỡ, mà theo cô, đó là một giải pháp có tình có lý nhất.

Với sự thật lòng và khéo léo, Nín đã thuyết phục chồng đón bạn gái (Pùa) về ở cùng. Thậm chí, tự tay Nín sắp đặt một phòng “hạnh phúc” thứ hai trên nhà sàn dành cho Pùa và Nhếnh. Hai căn buồng chỉ cách nhau một vách gỗ mỏng. Nhếnh hiểu vợ nhưng không đành bước vào phòng Pùa, mà vào phòng Nín, tới mức Nín phải nói thẳng: “Pùa về đây rồi, anh đừng để cô ấy phải tủi thân. Cô ấy đến đây cũng là vì mình” (trang 13). Và quả thực, Pùa hiểu điều đó, hiểu sự thu xếp thỏa thuận, chu đáo, ngay thật của cả Nín và Nhếnh. Nhưng sự chủ động, là Nhếnh, thì Nhếnh lại chưa sẵn sàng. Pùa cảm thấy “bẽ bàng” cho lòng tốt của mình, và cả lòng tốt của Nín- Chị bạn thân nữa.

Rồi một đêm, khi Pùa lao xuống suối nước gần nhà để giải tỏa những chất chứa trong lòng thì Nhếnh đã chứng kiến tất cả. Nhìn “Ngực Pùa căng đầy, phập phồng dưới ánh trăng” khiến “Mặt Nhếnh nóng bừng, các mạch máu đua nhau chạy rần rật khắp cơ thể”. Ngay sau đó khi trở về nhà, “Pùa vừa ngả đầu xuống gối, bỗng giật mình thấy Nhếnh đứng trước cửa buồng. Nhếnh cởi áo ngoài, đứng bần thần một lúc rồi mới lên giường”. Mọi cử chỉ, động tác của Nhếnh không qua được đôi tai nhạy cảm và con mắt trông chờ của Nín. Nhưng Nín đã là người vợ thật lòng, người vợ tự nguyện dám vượt qua rào cản để sắp đặt tất cả dành cho chồng vì dòng họ, vì gia tộc thì có gì mà phải ngần ngại? Còn Pùa? “Nhiều đêm Pùa gần như thức trắng, lắng nghe từng tiếng động, từng tiếng thở phía bên kia vách gỗ” (trang 14). Giờ thì “trống ngực Pùa đập thình thịch”. Bên kia vách gỗ, Nín không ngủ, không thể ngủ, mà tỉnh táo hơn cả mọi lần, chờ Pùa, chờ Nhếnh, và chờ một cuộc tình mạnh mẽ để có một sinh linh nhỏ bé trong hy vọng. Nhếnh! Pùa giật mình. Sự háo hức bỗng chốc lại chững lại trong giây lát. Ai hiểu? Ai sẽ tha thứ cho Pùa? Pùa vớt vát trong không mong muốn: "Anh sang với chị Nín đi, kẻo chị ấy sẽ...”! Con người có bản năng, khi hòa nhịp nó trở thành mạnh mẽ, “Sự kháng cự của Pùa trở nên vô nghĩa”. Một sự vô nghĩa mà chính Pùa hằng chờ đợi. Còn Nín, những phút “Sàn nhà rung lên từng chặp. Nín gần như ngừng thở. Có cái gì đó như đang đè nặng vào ngực Nín. Cảm giác vừa đau đớn, vừa mừng rỡ cùng lúc xâm chiếm Nín. Nỗi khát khao của dòng họ Hoàng thế là đã thực hiện được” (trang 16).

Nín dường như bằng lòng với suy nghĩ và việc làm nhân ái theo cách của mình, còn có một hợp thể vật chất, tinh thần đủ điều kiện làm cho cây gia phả vươn thêm từng đốt được hay không, chắc Nín cũng hiểu. Dẫu sao, nỗi đau vô sinh của cô cũng đã được giải tỏa. Truyện ngắn Việt Nam hiện đại, tình tiết như thế này còn hiếm so với ngoài đời. Tác giả khá bạo tay xây dựng sự việc và tâm lý nhân vật trong khuôn khổ và bối cảnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số nơi mà dân trí còn thấp nhưng tình người thì đầy ắp.

Truyện, tưởng như đã có thể kết thúc có hậu nhưng không, tác giả không dừng lại mà đã tự hóa giải trước bạn đọc. Nhếnh, chất con người hiện hữu, trong đêm, anh hút thuốc lào “não ruột”, uống rượu “ồng ộc”, “Thấy mình quá tệ trước hai người phụ nữ nhỏ bé nằm trong hai căn buồng bên kia” (trang 17), anh “bỏ” nhà, đi rừng cùng đám thợ khai thác gỗ. Nhân vật Nhếnh, tính cách Nhếnh lần nữa thay đổi. Một ý nghĩ lóe lên làm anh hào hứng khi bốc những tấm gỗ quý. “Niềm vui khiến Nhếnh quên đi mệt mỏi. Bộ bàn ghế cùng hai chiếc giường mới sẽ được đóng nay mai, chắc hẳn cả Nín và Pùa sẽ vui lắm” (trang 18). Đã rõ. Nhếnh tự giải tỏa mối bế tắc bấy lâu nay bằng cách ba người lớn sẽ được hợp lý hóa, cùng sống chung trong một gia đình? Ý nghĩ có phần ngây thơ của Nhếnh không thành khi Pùa kiên quyết ra đi sau khi kịp giãi bày thật lòng với Nín, và Pùa đã để lại mọi “lễ vật” mà đích thân Nín mua sắm. Bộ quần áo nhuộm chàm, chiếc thắt lưng xanh, đôi vòng bạc... Hành động bỏ đi khi vắng Nhếnh, hẳn Pùa đã suy nghĩ, mặc dù biết Nhếnh sẽ trống trải nhưng hy vọng, và Nín, người chị, người bạn gái tốt bụng, chắc cũng không muốn. Nhưng Pùa phải đi, đi xa, và hoàn lại Nhếnh bằng một lời giải mà cô cho là hữu hiệu. Lời giải ấy: “Bài thuốc chữa vô sinh này của họ Hà bị thất truyền từ lâu, em đã tìm được. Chúc anh chị được hạnh phúc. Em Pùa” (trang 19).

“Vách gỗ” đến đây dường như khép lại? Chưa! Lời giải của Pùa rõ ràng, Nhưng không hiện thực. Cây thuốc quý chỉ mọc trên đỉnh núi quanh năm mây phủ, thuốc phải hái trước khi mặt trời mọc, ba thang thuốc mới hiệu nghiệm, muốn đủ ba thang thuốc vô sinh này, phải đi lại ròng rã hàng tháng... Khó khăn ấy, người miền núi dân tộc như Nhếnh dễ dàng vượt qua. Nhưng, nghiệt ngã, vẫn không thể hiệu nghiệm khi thiếu một “vị” đặc hiệu, mà đó cũng là bí quyết duy nhất là “phải có ngón tay út của một người phụ nữ mắn đẻ đã được đốt thành tro để hoà cùng bát nước thuốc đã được cô lại” (trang 20). Thách thức này, với Nhếnh, với Nín, chắc không thể: Không thể có được một sinh linh xa vời nào đó mà phải đổi đi một phần nhân mạng. Vậy, Pùa là ai? Suy nghĩ vì dòng tộc của Nín, của Nhếnh, chắc không đến nỗi đáng trách. Nhưng việc chọn Pùa (theo tiếng Kinh có nghĩa là nâng đỡ), đưa Pùa vào cuộc, lại là một giải pháp đầy dụng ý của tác giả. Dụng ý ấy thể hiện rõ ở bài thuốc, bát thuốc lá cây của Pùa, phải có tro ngón tay út của người phụ nữ mắn đẻ! Đi giữa hư ảo và hiện thực, dân gian và hiện đại, tâm linh và khoa học, Pùa là ai? Bài thuốc hư thực của Pùa, thực chất là gì? Tác giả có ý để ngỏ, người đọc tự suy xét! Tôi không nghĩ truyện ngắn nào cũng cần có tròn trặn. Nhìn tổng thể, Vách gỗ, là một nghịch lý linh nghiệm… Một tiếng nói từ chối, tôi đồng tình với tiếng nói ấy của tác giả, nếu đúng.

                                                                       

                                                                                                           H.L.K

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter