Miền gái xinh qua tiểu thuyết “Tằng cẩu”

NGUYỄN THẾ QUYNH

 

Dự thảo từ khi viết bút ký “Miền gái xinh” và truyện ngắn “Sao tổn khuống”, đến đầu năm Quí Mão (2023) nhà văn Hoàng Thế Sinh cho ra mắt bạn đọc tiểu thuyết “Tằng Cẩu”. Dù hư cấu bạn đọc vẫn dễ nhận ra bóng dáng của vùng quê Tây Bắc- Mường Lò gạo trắng nước trong với những con người thuần hậu đẹp nết đẹp người cùng một nền văn hóa giàu bản sắc tộc người Thái đang ngày càng khẳng định giá trị khi xã hội có nhiều biến chuyển.

Mở đầu tiểu thuyết, tác giả đưa bạn đọc đến với không gian Mường Sưa. Vùng đất này quả là giàu và đẹp, ai đã sinh ra và lớn lên ở nơi đây chẳng nỡ rời. Chẳng thế mà một du khách trẻ nước ngoài khi đến Mường Sưa vì mê cảnh, yêu người ngỏ lời với Hoa Ban đưa cô sang Mỹ đã nhận được câu trả lời “Là bên Mỹ không có những dãy núi cao sừng sững như núi Khau Tít phía Đông, núi Khau Phạ phía Tây, núi Pú Lo phía Nam, núi Giàng phía Bắc, với mênh mông rừng xanh, ngạt ngào muôn hoa lá, với ríu rít chim sơn ca hót mỗi sm mai, với bồng bềnh mây trắng mây vàng, đẹp như tranh vẽ. Bên Mỹ không có cánh đồng Mường Sưa trồng cây lúa làm ra hạt gạo Séng Cù thơm ngon, không có cây lúa làm ra hạt gạo Nếp Tan bùi, dẻo ngọt, thơm nức, không có suối Xia trong mát để cho gái Thái xinh đẹp tắm mát mỗi chiều, không có suối khoáng nóng Cò Cọi cho gái Thái xinh đẹp tắm ấm áp mỗi sớm mai, không có rừng hoa ban nở trắng ngần mỗi mùa Xuân về, không có Hội lồng tồng, không có hát giao duyên Hạn khuống, không có múa xòe, không có các tục cúng Xên bản Xên mường, Xên lẩu ló, Xên đông, không có nhiều thứ ăn ngon như mọi người vừa thưởng thức đây, thì em làm sao bỏ được Mường Sưa chứ?”. Cũng như cảm nhận của chính nhân vật Bùi Tắc Kin trong tác phẩm, con người ở đây đẹp “là do con gái Thái ăn hạt gạo, hạt ngô, củ sắn ngọt bùi trên núi cao bốn mùa sương giăng mây phủ, ăn cái rau ngọt, rau lành trên rừng xanh tươi xanh, uống cái nước trong, nước mát của con suối chảy tự nguồn núi cao, tắm cái nước trong nước mát nước ấm chảy từ thăm thẳm lòng đất mẹ, và nữa cả tuổi ấu thơ uống mãi những câu dân ca Thái trữ tình trong lời mẹ ru...”. Còn con trai, nếu không đẹp dáng vẻ thư sinh như Xênh mái tóc xanh dày, gương mặt trái xoan, tràng mày dài rậm, đôi mắt to tròn long lanh, miệng mím mím tươi hồng như miệng con gái, giọng nói và giọng hát của Xênh cũng thánh thót ngọt ngào như giọng con gái” thì cũng mang nét khỏe khoắn như cây, như đá trên rừng Pú Lo.

Nội dung tác phẩm xoay quanh chuyện tằng cẩu (búi tóc). Đây là một tập tục truyền thống của tộc người Thái mỗi khi con gái đi lấy chồng “Con gái mà không được tằng cẩu thì có khác gì cái cây không ra hoa không có quả, bị người đời chê cười, buồn lắm. Và nhất là “cái sự trớ trêu của con gái, chưa tằng cẩu mà đã có con, cái điều cấm kỵ với tộc người Thái, rồi bà biết nói với dân bản thế nào chứ?”. Thật không may hay chính số mệnh đưa đẩy khiến nhân vật chính Lò Nhi Hoa Ban lại rơi vào hoàn cảnh trớ trêu ấy. Cái tên Hoa Ban, nói như Mẹ Nếp “đấy là tên do bố con đặt cho. Bố con bảo, có hoa lúa mới có quả lúa, quả lúa cho hạt gạo nuôi sống con người, cái tên Lò Nhi Hoa Lúa là có ý nghĩa lắm. Còn con là Lò Nhi Hoa Ban, loài hoa mà ai cũng thích, ai cũng cũng yêu, ai cũng say mê ngắm nhìn, loài hoa ban đẹp nhất rừng Tây Bắc đấy. Điển hình cho những gái xinh ở Mường Sưa, Hoa Ban càng lớn càng xinh nên sớm lọt vào ống kính của chàng nghệ sĩ Vỹ Vỹ “Ngắm cô qua ống kính rum cận, anh ô lên một tiếng kinh ngạc và đứng ngây nhìn. Vỹ Vỹ nhìn Hoa Ban đăm đắm, miệng lẩm bẩm, ôi giời, hoa ban là nàng hay nàng là hoa ban chứ, nàng kìa, đầu đội khăn piêu rực rỡ hoa văn, dáng cao, chân dài, eo kíu manh po là cái eo con tò vò thon nhỏ được quấn khéo vòng khăn xanh, ngực căng nức hàng cúc mắcpém bởi hai vú chúm chúm như cây măng vầu mới mọc, mông mẩy trễ dây xà tích bạc óng ánh, gương mặt nàng hồng tươi, mắt bồ câu ướt long lanh, tràng mày rậm dài cong, mũi thẳng, làn môi mọng thắm như hoa đào mùa xuân, nụ cười chúm chím, hai cái mấm bạc gắn bên tai lấp lánh, cái vòng bạc đeo tròn cổ hươu lấp lánh, ơi cái người ấy ơi, nàng Tiên núi ơi, sơn nữ Thái ơ-ơ-ơi, sao em xinh thế, em làm khổ anh rồ-ồ-ồ-ồi...”. Chính vì vậy, ngay từ lúc còn là học sinh phổ thông trung học Hoa Ban đã nổi tiếng với danh hiệu ảnh “Hoa đẹp Mường Sưa”. Được nhiều người yêu và mến mộ như Xênh, Vy Sao bạn học thuở thiếu thời, kĩ sư Lò Như Đin, nghệ sĩ nhiếp ảnh Vỹ Vỹ nhưng cũng không tránh khỏi tham vọng chiếm đoạt của những kẻ lắm tiền, hám gái như Bùi Tắc Kin, Phỷ. Hoàn cảnh gia đình nghèo, bố mất sớm, mẹ già, chị đi lấy chồng nên ước mơ học đại học nông nghiệp sau này làm cán bộ đành gác lại để theo lớp hướng dẫn viên du lịch. Số phận đưa đẩy khiến cuộc đời cô sao mà lắm truân chuyên: mẹ ốm phải đi viện điều trị và mắc món nợ hai trăm triệu đồng chưa biết ngày nào trả xong; thích làm hướng dẫn viên du lịch để có điều kiện giới thiệu nét đẹp quê hương với du khách trong và ngoài nước nhưng công việc phập phù, thu nhập thấp nên phải vào làm cho trang trại Pú Lo của ông chủ Tắc Kin với vô vàn cạm bẫy; yêu Xênh thì Xênh lại chuyển giới khi theo học Trường Sân khấu- Điện ảnh; yêu kĩ sư Lò Như Đin thì bị Phỷ phá đám, ông chủ Bùi Tắc Kin tìm mọi cách chiếm đoạt và sau này cướp cả đứa con trai dứt ruột đẻ ra; cho đến lúc tưởng như đạt được hạnh phúc đời người con gái Thái là tằng cẩu thì lại bị Tắc Kin cùng lũ tay chân Xế, Mốc cắt mất mái tóc dài… Ngẫm lại đời mình, Hoa Ban đôi lúc không khỏi trách móc ông Trời “Loạng choạng về nhà, suốt đêm Hoa Ban không ngủ, nghĩ thương phận mình bất hạnh, bị ông chủ Tắc Kin cưỡng hiếp, yêu đương chưa hết đắm say, sinh con không được đàng hoàng, sắp đến ngày tằng cẩu thì bị cắt mất tóc, phạ đin ơi, Hoa Ban thầm kêu trong lòng, sao trời không thương người xinh người đẹp, sao trời cứ hại người tốt người hiền?. Muốn lý giải nỗi khổ đời người con gái đẹp là số mệnh chăng mà tác giả sau này cũng để cho đứa con của cô mang tên Lò Như Bun, theo tiếng Thái nghĩa là số mệnh. Song cái quy luật “nhân định thắng thiên” hay thiên lương của con người đã giúp Hoa Ban đứng vững và vượt qua số phận. Sống xung quanh những người tốt như thầy mo Lò Văn Biên, kĩ sư Lò Như Đin, bạn học Vy Sao, Giàng Mỉ Châu…, cô gái đẹp Mường Sưa nhận được nhiều lời khuyên, động viên tinh thần lẫn sự giúp đỡ về vật chất và bảo vệ tính mạng cùng hạnh phúc. Tình yêu với chàng kỹ sư Đin là một mối tình đẹp, trong sáng dẫu rằng để đạt tới viên mãn cũng phải trải qua vô vàn gian nan. Thiện cảm dành nhiều cho cặp đôi này khiến ngòi bút tác giả dễ dàng cảm thương với những đau đớn, vật vã của nhân vật “Giọt máu trong trong người cô không biết là của anh Đin hay của lão Tắc Kin khốn nạn kia? Cô phải tránh xa chốn này, phải nén mình chờ đợi..., phải chịu khổ, chịu đau, chịu nhục nhã, và chờ đợi...”; hay hòa điệu cùng sự ngọt ngào của giấc mộng lứa đôi “Ôi, rừng ban trắng ngần hoa ban làm cho cả cánh rừng sáng bừng và tỏa hương thơm ngào ngạt. Cô buông tay Đin, lững thững bước quanh các gốc cây ban, thỉnh thoảng lại ngẩng lên, vin một cành ban trĩu trịt hoa trắng ngần ấp lên mặt, lên ngực, hít hà mãi cái mùi hương hoa dịu ngọt, ư ư, mùi hương hoa rừng sao mà thơm kỳ lạ, cô khép nhẹ hàng mi và khẽ gọi: "Anh Đin ơi, lại đây với em nào!", Đin chạy đến bên cô, cũng vin một cành ban trĩu trịt hoa trắng ngần, không phải để hít hà hương thơm mà ấp chập lên ngực cô, ô này, như cả một rừng hoa ban trắng ngần nở trên ngực cô, sung sướng quá, cô cười khúc khích, chợt Đin ôm siết cô, đặt lên môi cô cái hôn nồng cháy, cô lịm người, cảm giác cái hôn ngọt ngào và dịu thơm hơn cả hương thơm hoa ban kia, và cô buông cành hoa ban, vòng tay ôm siết lấy cổ Đin, hai người ngả xuống gốc ban, ấm mềm trên mền lá ban rụng, rồi lịm mãi, lịm mãi...”. Kết thúc có hậu là tất yếu khi cái thiện thắng cái ác: tóc Hoa Ban dài trở lại, tằng cẩu được thực hiện trong không khí ấm cúng của lễ cầu mùa, cầu phúc đầu xuân và lứa đôi hạnh phúc vuông tròn “Nghe thằng Như Bun nói thế, Đin cười mủm mỉm, nói nhỏ vào tai Hoa Ban: "Chưa tằng cẩu mà đã sinh ra thằng Như Bun rồi nhỉ?", Hoa Ban cười ngượng nghịu, tay mân mê chiếc vòng bạc bùa hộ mệnh và xoa xoa vồng ngực căng nức như ức chim gâu đực của Đin, cũng nói nhỏ vào tai Đin: "Ghét anh!", rồi ngả đầu tựa vào vai Đin, cảm nhận như tựa vào núi Pú Lo, bình yên và hạnh phúc vô cùng.

Tiêu biểu cho phái mạnh xứ Mường Sưa là chàng trai Bản Ten, kĩ sư Lò Như Đin. Vốn tính hiền lành, nhân hậu lại được bác Tào Liên Khương bên Vân Nam truyền dạy võ nghệ và nhiều bài thuốc quí nên giàu lòng trắc ẩn, sẵn sàng cứu giúp người ngay: ngăn chặn sự manh động của Phỷ quậy phá cuộc trưng bày ảnh của nghệ sĩ Vỹ Vỹ; chiến đấu chống lại lũ côn đồ Xế, Mốc quen thói ức hiếp người lành; không quản gian nan lên rừng tìm cây thuốc Máu Rồng về chữa bệnh cho Mẹ Nếp; cứu Hoa Ban khỏi nanh vuốt ông chủ Bùi Tắc Kin cùng tìm lại đứa con trai cho cô… Ở Lò Như Đin, tình yêu lứa đôi trong sáng nên có sức mạnh để “tam tứ núi cũng trèo, thập bát sông cũng lội, ngũ lục đèo cũng qua”. Thương Hoa Ban, thông cảm với hoàn cảnh của cô mà chia sẻ niềm vui, nỗi buồn khi người yêu gặp nạn “Thương cô, Đin lên Rừng Thiêng Pú Lo đào rễ cây Máu Rồng, đem về sắc cho cô uống mỗi ngày để cô thôi đau đầu và ngủ ngon hơn. Đin lên rừng đào rất nhiều củ hà thủ ô đem về xao vàng sắc đặc cho cô uống, thuốc quí làm cho tóc cô mọc lại, mọc nhanh, mọc dài. Đin lấy nước gạo gội đầu cho cô mỗi sớm mai. Đin ra ven suối Cò Noòng tìm cây hương nhu về gội đầu cho cô mỗi chiều hôm. Đin chảy hoa bưởi gội đầu cho cô suốt mùa xuân. Và lạ thay, cuối mùa xuân thì tóc cô đã dày, xanh mướt như rêu đá, xỏa dài mãi xuống cạp váy”. Rồi sau này chính anh đã trở thành chỗ dựa vững chắc của hai mẹ con trong ngôi nhà hạnh phúc. Không chỉ là người chồng, người cha tốt, Lò Như Đin còn là con người của cộng đồng dân tộc Thái Mường Sưa.Yêu cánh đồng lúa chín trĩu bông vàng thơm mùi hương nếp Tan lả cùng hạt gạo Séng cù; yêu và có trách nhiệm với việc bảo vệ Rừng Thiêng Pú Lo nghìn năm tuôi. Anh cũng là người duy nhất có khả năng thần giao cách cảm để gặp được Pẩu pú Lò Luống với ước mơ dựng lại ngôi nhà sàn lạ làm nơi trú ngụ cho linh hồn cụ và cụ bà Điêu Jỳ Sơn. Đại diện cho cái thiện chống lại cái ác, nhân vật LòNhư Đin hay chính là phát ngôn của tác giả về lòng yêu thương và trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người.

Trong tiểu thuyết “Tằng cẩu”, cái ác luôn hiện diện bằng chính lòng tham của con người. Chỉ một Bùi Tắc Kin cùng lũ tay sai Phỷ, Xế, Mốc mà gây nên bao buồn đau cho dân Mường Sưa. Nhìn vào cái tướng mạo của ông chủ trang trại Pú Lo  Ư, vẻ trẻ trung lắm, cũng điển trai chứ, dáng cao ráo, nước da trắng, mái tóc xanh cắt gọn, chải mượt, xức nước hoa thơm nồng, giọng nói nhẹ nhàng dễ nghe, chỉ tội mặt hơi dài và gãy, răng hơi vẩu tí, nhưng được đôi mắt to sáng ánh lên vẻ thông minh, cái miệng tươi duyên, mũi dài, với đôi mắt kính trắng tròn gọng vàng, ra dáng trí thức hơn là một ông chủ trang trại chuyên nuôi ba ba, nuôi gấu, nuôi ngựa bạch, chuyên xẻ gỗ và xẻ đá” thật khó nhận ra bản chất lưu manh. Nhưng với lòng tham “Nếu có vàng, có thật nhiều vàng thì con người có th mua được rất nhiều thứ mà con người muốn, như mua được nhà lầu, xe hơi, mua được cả chức tước quyền thế cao sang, mua được cả gái xinh gái đẹp nữa ạ!” thì hắn không từ bất kỳ việc làm hay thủ đoạn nào: xẻ gỗ lậu, khai thác phi pháp tài nguyên đá cảnh, bỏ việc nhà nước lao vào con đường kinh doanh bất động sản, rồi “vì đất quanh thị trấn Mường Sưa mua bán mãi cũng hết, Tắc Kin nghĩ ngay việc kinh doanh những gì phù hợp với vùng rừng núi mênh mông và đẹp như tranh vẽ này. Tính toán mãi, Tắc Kin quyết định mua đất rừng dưới chân núi Pú Lo để làm trang trại”. Có thể nói Bùi Tắc Kin là hiện thân của loại người dựa vào kinh tế thị trường, bám vào những nhóm lợi ích để làm giàu bất chính. Và khi trong tay sẵn có đồng tiền dám làm tất cả: xúi giục Phỷ tham gia dắt gái, cho tay chân đánh người chân thực, hại đời bao con gái nhà lành, bắt cóc người cùng phá hoại hạnh phúc gia đình Hoa Ban… Dẫu chưa bị pháp luật trừng trị song lương tâm cắn dứt và chết trong sự đau khổ của kẻ khi sống nặng Tham, Sân, Si. Và thông điệp tác giả cuốn tiểu thuyết muốn gửi đến người đọc là “Cõi trần gian bình yên hay không đều do con người định đoạt cả. Chiến tranh. Hòa bình. Vui. Buồn. Đau khổ. Hạnh phúc. Tất cả đều từ con người mà ra đấy thôi!”. Vậy hướng thiện cũng là xu hướng tất yếu của văn chương khi viết về cái ác.

Đọc Hoàng Thế Sinh ta gặp giọng văn đậm chất thơ quen thuộc. Với không gian nghệ thuật là một vùng quê cảnh đẹp, người xinh, giàu truyền thống văn hóa thì đây lại là lợi thế để tác giả phát huy sở trường. Mường Sưa luôn được miêu tả trong niềm hứng khởi, sự rung động của tâm hồn. Một buổi sớm mùa hạ bầu trời mở ra mênh mang; một mùa thu nắng hây hây vàng tôn thêm cái rực rỡ của cánh đồng Mường Sưa lúa chín trĩu bông vàng… Rồi cảnh thanh bình suối Xia mỗi lúc chiều đổ bóng “Các chàng trai Thái đi mảng nứa, vung rộng vòng chài úp chụp cả bóng núi với mặt trời làm dậy sóng long lanh ánh chiều. Vỹ Vỹ vừa xem quăng chài vừa ngó sang bờ xa, phía bên đồng Mường Sưa, dưới bóng tre xanh, ới kìa, ríu ríu các thiên thần xao noọng đi tắm suối Xia, váy cuốn cao lên đến cổ, lộ chân dài trắng như nõn chuối, cười khúc khích, tóc xanh mượt xỏa dài theo dòng nước xanh”. Nhiều sinh hoạt văn hóa cũng được tác giả dựng lại sinh động với năng lực quan sát kĩ càng như: ẩm thực, giã cốm đêm trăng, hội Lồng tồng và hát giao duyên bên sàn hạn khuống, lễ cầu phúc, cầu mùa, tằng cẩu… Đặc biệt múa xòe vốn là đặc trưng riêng của tộc người Thái “Mở đầu cuộc đón tiếp bằng múa xòe trên nhà sàn. Mười ba sơn nữ Thái gương mặt xinh tươi như hoa ban mùa xuân, tóc xanh buông dài, áo cóm trắng với hàng cúc mắcpém lấp lánh ôm sít eo ong, váy đen quấn khéo khăn xanh với vòng dây xà tích trễ mông mẩy, mắt sáng như sao, các nàng nhón chân trần kéo vòng tròn, và nâng khăn vẫy chào. Ơi kìa, các sơn nữ Thái thật giống các thiên thần mà nhà trời giáng xuống trần gian. Nào trống lên! Tùng tùng tùng! Chiêng nữa, chập cheng chập cheng. Quả nhạc leng keng leng keng. Và khèn bè tí tí tò, tò tí tí tò..., sáo nữa, pí pặp, pí thiu, pí lè, pà pi pà, piu pà piu... Các sơn nữ Thái bắt đầu múa, chân nhún nhẩy, và hình như gót sen còn vương mùi bùn ngấu chua và mùi thơm nức quả lúa chín, tay mềm tung khăn, miệng cười tươi”. Riêng ngôi nhà sàn Thái với cấu trúc ba gian hai chái, cột nhà to cả vòng tay ôm đều làm bằng gỗ chò chỉ, mái lợp rơm rạ phủ dày rêu xanh, hai đầu mái nhà là hai chiếc khau cút căm đã trở thành biểu tượng không thể thiếu của Mường Sưa. Thế nên việc dựng nhà sàn lạ trong rừng Pú Lo và qui ước không bán ngôi nhà cha ông để lại như một thông điệp về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đọc văn anh ta cũng thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ảo và thực. Khi miêu tả tác giả hay gắn nhân vật với những giấc mơ và thông qua đó mà làm rõ tâm trạng buồn vui, thái độ yêu ghét cùng khát vọng về cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Và cũng tỏ ra khá am hiểu về văn hóa của tộc người Thái mà phóng tác hẳn truyền thuyết Nàng Ban mới bao quát nhiều sự kiện nhằm lý giải nguồn gốc hoa ban cùng vùng đất giàu sản vật, lắm lễ hội. Ai đã từng đọc Xống chụ xon xao (Tiễn dặn người yêu) hay có dịp tìm hiểu sâu về dân ca Thái hẳn chẳng ngạc nhiên trước việc tác giả đưa khá nhiều thành ngữ dân gian vào trong tác phẩm như “Cái ngườiNàng dóng đổ xéo nộc cốt canh/ Nàng xé cánh pắn phải pên bók so se (Ngồi xổm thêu được hình chim phượng hoàng/ Ngồi nghiêng quay sợi thành chúm hoa so le) kia mà chẳng ai lấy thì gái bản Cò Lả, gái Mường Sưa này ế hết à”. Hay các bài đồng dao, lời hát khắp “Em ơi, sam síp khuôn mang nả, hả síp khuôn mang lăng (ba mươi hồn đằng trước, năm mươi hồn đằng sau) của anh đã treo ở ngõ nhà em, vía anh đã ém tận chân cầu thang nhà em, anh bặc chàng (chọc sàn) chín lần mà em chẳng dậy mở cửa, anh thổi khèn chín đêm mà em chẳng xuống cầu thang, sao em cứ im lặng thế, khiến anh buồn như mùa đông mây mù lạnh lẽo, em ơi". Không phải là lạm dụng mà tác dụng làm giàu ngôn ngữ nghệ thuật, góp phần nâng cao hiệu quả thẩm mĩ.

Viết về Tây Bắc- Mường Lò và tộc người Thái, Hoàng Thế Sinh thuộc số ít nhà văn hướng ngòi bút về mảng đề tài miền núi. Bên cạnh giá trị khảo cứu phong tục, tiểu thuyết Tằng cẩu còn là bài ca về những giá trị người và lời cảnh báo về sự băng hoại nếu không chú ý giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

N.T.Q

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter