Một số vấn đề cần quan tâm trong quản lý, Bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật Xòe Thái (*)

LÒ THỊ HUÂN

Tôi là một người con dân tộc Thái, từ khi sinh ra, lớn lên và trưởng thành đều gắn liền với nền văn hóa dân tộc. Khi thoát ly công tác lại được làm việc tại vùng Mường Lò, một vùng đất mang nhiều giá trị văn hóa đặc trưng của miền Tây Bắc. Trong quá trình công tác của mình, nhất là khi làm lãnh đạo quản lý, tôi đã nhận thức và ý thức đưa cả hệ thống chính trị vào cuộc, đồng thời khơi dậy, phát huy sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, trong đó có dân tộc Thái để bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc có nguy cơ cao về mai một. Thậm chí có những giá trị văn hóa tiêu biểu đã bị lai căng, pha tạp (Ví dụ như trước đây thị Xã Nghĩa Lộ tổ chức các sự kiện văn hóa thì có những điệu múa, điệu xòe từ động tác Chân, Tay, Hình Thể  đến Đạo Cụ, Nhạc Cụ được sử dụng không phân biệt được đâu là truyền thống của dân tộc Thái, đâu là pha trộn văn hóa dân tộc khác). Với ý thức đó, tôi đã thành lập nhóm để đăng ký thực hiện một số đề tài khoa học cấp tỉnh về nghiên cứu, bảo tồn, lưu truyền một số giá trị văn hóa tiêu biểu của dân tộc Thái vùng Mường Lò- Nghĩa Lộ- Yên Bái. Qua thực tế của bản thân và nhóm nghiên cứu đi thu thập thông tin, tư liệu, dữ liệu và tài liệu về  Xòe Thái ở một số tỉnh Tây Bắc nói chung, đặc biệt là Xòe Thái ở vùng Mường Lò thuộc huyện Văn Chấn, thị Xã Nghĩa Lộ của Tỉnh Yên Bái nói riêng. Trước thực trạng bảo tồn, phát huy Xòe Thái tại thị Xã Nghĩa Lộ trong những năm qua. Xin được tham góp với về: “Một số vấn đề cần quan tâm trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật Xòe Thái trong xã hội đương đại” như sau:

Thứ nhất: Qua quá trình đi thực tế của cá nhân tôi và các thành viên trong nhóm thực hiện đề tài: “Nghiên cứu bảo tồn, lưu truyền 6 điệu xòe cổ của đồng bào dân tộc Thái vùng Nghĩa Lộ- Mường Lò”. Từ gặp gỡ, trao đổi với một số Cụ Cao Niên, người am hiểu, nắm giữ và biết được Xòe Thái (Đến nay nhiều Cụ đã qua đời) cùng với việc tổ chức hội thảo, tổng hợp các thông tin, cứ liệu, tài liệu có được thì phải khẳng định rằng:  Xòe được hình thành và phát triển gắn liền với quá trình lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng người Thái, nó gắn liền với cuộc sống sinh hoạt, thể hiện đời sống vật chất và tinh thần của tộc người Thái. Xòe không chỉ là những tiết mục văn nghệ dân gian đơn thuần, mà giá trị lớn lao của Xòe Thái là được kết tinh từ thực tế phản ánh mọi mặt sinh hoạt đời sống, chuyên chở quan niệm về vũ trụ, âm dương ngũ hành, về mối quan hệ Thiên - Địa - Nhân và vai trò của con người trong mối quan hệ tổng hòa đó. Chính từ môi trường tự nhiên, môi trường lao động sản xuất, khát vọng về cuộc sống tốt đẹp và nhu cầu về đời sống tinh thần của tộc người Thái đã hình thành nên những điệu Xòe, hình thức Xòe, không gian Xòe rất đa dạng, tinh tế và đem lại một sắc thái văn hóa độc đáo. Qua mỗi bước Xòe, nhịp Xòe được hòa quyện với âm thanh trữ tình, sôi động của các nhạc cụ được thẩm thấu ăn sâu vào lòng người một cách tự nhiên, làm cho con người thân thiện, gần gũi, chan hòa với nhau hơn, gắn kết tình yêu người, yêu đời để bước vào cuộc sống lao động, sản xuất, chinh phục thiên nhiên với niềm tin, tình yêu trong sáng lành mạnh (Qua cuộc trao đổi, tiếp xúc với các Cụ Cao Niên người Thái, họ đều rất tự hào và khẳng định trong mỗi cuộc vui của gia đình, của bản, mường không thể thiếu được các điệu Xòe, hầu hết các Cụ đều được tham gia Xòe ở các cấp độ khác nhau). Như vậy có thể nói, qua các điệu Xòe, bước Xòe, hình thức Xòe cùng không gian Xòe chúng ta thấy được cuộc sống của xã hội người Thái từ thủa sơ khai đến quá trình phát triển cũng như sự nhận thức về nhân sinh quan và thế giới quan của họ, tất cả tạo nên một bản sắc, cốt cách văn hóa của tộc người Thái không thể pha trộn. Xòe Thái là tri thức dân gian có tác dụng kích thích phát triển nhận thức của con người, góp phần giúp con người thêm hiểu tự nhiên, sống thuận với thiên nhiên, biết điều chỉnh hành vi lối sống cho phù hợp với đạo làm người. Chính thế, Xòe Thái là tài sản vô giá của dân tộc Thái nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Xòe Thái đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa đậm chất dân tộc trong kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam chúng ta.

Thứ hai: Từ cách tiếp cận để tìm hiểu về nguồn gốc hình thành, phát triển và vai trò, giá trị của Xòe Thái trong cộng đồng người Thái. Đặc biệt là qua đi thực tế tìm hiểu ở một sốTỉnh Tây Bắc, chúng tôi thấy Xòe Thái nói chung và nghệ thuật Xòe Thái nói riêng rất đa dạng, phong phú độc đáo về Điệu Xòe, động tác Xòe (Các động tác của Chân, Tay, hình thể) cùng sự biến hình khi Xòe, việc sử dụng các bản nhạc, nhạc cụ, đạo cụ và hình thức, không gian để Xòe ở mỗi vùng người Thái cũng khác nhau. Do vậy, về thể loại và hình thức thực hành nghệ thuật Xòe Thái của mỗi vùng cũng đa dạng phong phú với những đặc trưng riêng không dập khuôn và đồng nhất như nhau. Ví dụ qua thực tế tìm hiểu chúng tôi thấy: Nhạc cụ chủ đạo để Xòe của một số địa phương ở Lai Châu là Đàn Tính. Ở vùng Nghĩa Lộ- Mường Lò nhạc cụ chủ đạo thường dùng là Khèn Bè, Trống, Chiêng, Tằng Bẳng. Hay về điệu Xòe ở vùng Sơn La có Xòe Vòng là tiêu biểu. Vùng Lai Châu, Điện Biên có Xòe Quạt, Xòe Nón… Ở vùng Nghĩa Lộ- Mường Lò tiêu biểu là có Xòe Khăn… Tại vùng Nghĩa Lộ- Mường Lò Tỉnh Yên Bái, qua thực tế tìm hiểu chúng tôi thấy có nhiều điệu Xòe, nhiều động tác Xòe khác nhau. Tuy nhiên cũng đã có những động tác chưa biết là đặc trưng riêng của điệu Xòe nào, nên khi Xòe các động tác thường bị lẫn lộn, người Xòe thường Xòe theo cảm tính mà không phân biệt được  các điệu Xòe cơ bản. Hay có những điệu Xòe không thể hiện được nét đặc trưng mà bị lai căng pha trộn nét văn hóa dân tộc khác. Đáng chú ý nhất là Những năm trước đây, khi Thị Xã và Tỉnh tổ chức sự kiện Xòe thì các động tác và hình thức trình diễn rất đơn điệu nên hầu như không thể hiện được giá trị nghệ thuật của Xòe Thái. Điều này cũng dễ hiểu vì Xòe Thái cũng như một số giá trị văn hóa đặc thù khác chỉ được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong cộng đồng, mà chưa có Sách hoặc công trình nghiên cứu, sưu tầm, lưu truyền một cách công phu, bài bản khoa học, nên người biết và nắm giữ một cách bài bản, sâu sắc cũng rất ít mà tuổi đời của họ rất cao (như nghệ nhân ưu tú Lò Văn Biến ). Chính vì vậy, chúng tôi đã thực hiện đề tài khoa học cấp Tỉnh về “Nghiên cứu bảo tồn, lưu truyền 6 điệu Xòe Cổ của đồng bào dân tộc Thái vùng Nghĩa Lộ- Mường Lò tỉnh Yên Bái”. Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã huy động các Cụ Cao Niên, người am hiểu, nắm giữ Xòe Thái ở Mường Lò- Nghĩa Lộ tham gia cung cấp thông tin và truyền dạy các điệu Xòe mà họ đang còn nắm giữ được. Đặc biệt là nghệ nhân ưu tú Lò Văn Biến, Nghệ nhân dân gian Điêu Thị Xiêng đã đồng hành cùng với nhóm thực hiện đề tài. Chúng tôi xây dựng đội ngũ nòng cốt bố trí thời gian trong 3 tháng để học các điệu Xòe, sử dụng nhạc cụ, bản nhạc Xòe từ các nghệ nhân,các Cụ Cao Niên còn nắm giữ Xòe, đồng thời cử một nhóm chuyên theo sát từng buổi học để tổng hợp, ghi chép các động tác, từng điệu Xòe, bản nhạc, đạo cụ, nhạc cụ Xòe … được sử dụng kèm theo. Sau đó cùng với những thông tin, cứ liệu thu thập được, nhóm đã tổ chức hội thảo, thống nhất xây dựng tập bài giảng 6 điệu Xòe Cổ bao gồm các động tác chân, tay, hình thể, nhạc cụ, đạo cụ, bản nhạc được sử dụng. Xây dựng đĩa CD triển khai tập cho 48 đội văn nghệ nòng cốt đủ các thế hệ, tổ chức phổ biến dạy các điệu Xòe cho cộng đồng kết hợp tổ chức hội thi Xòe trên toàn địa bàn. Hiện nay Thị Xã có tập bài giảng và đĩa CD về 6 điệu Xòe Cổ, đây là tài liệu rất quan trọng để giới thiệu và phổ biến Xòe trong dân cư và các trường học. (Lấy tên là 6 điệu Xòe Cổ là vì các điệu Xòe được truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng cùng với sự phát triển của tộc người Thái cho đến nay, nên các nghệ nhân cũng như hội đồng khoa học cấp Tỉnh nghiệm thu đề tài đều thống nhất tên như vậy). Qua những thực tế đó chúng tôi thấy rằng mỗi nơi, mỗi vùng sẽ có các điệu Xòe, nhạc Xòe, động tác Xòe, đạo cụ Xòe cùng không gian và các hình thức trình diễn Xòe không đồng nhất nhau. Chính điều đó đã tạo nên sự đa dạng, phong phú trong nghệ thuật Xòe Thái của vùng Tây Bắc nói chung và từng địa phương có người Thái nói riêng. (Ví dụ như chữ Thái của mỗi vùng người Thái ở Việt Nam cũng đã khác nhau về thanh, về âm… ). Đây là những điều hết sức cơ bản, mỗi địa phương cần lưu ý để có các giải pháp bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật Xòe Thái của địa phương mình.

Thứ ba:  Đề xuất một số giải pháp cơ bản về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật Xòe Thái trong thời gian tới như sau:

1. Các địa phương cần có cuộc khảo sát, nắm bắt tình hình, thực trạng Xòe Thái và nghệ thuật Xòe Thái tại địa phương mình một cách bài bản, công phu. Từ đó, có chiến lược, có định hướng và giái pháp cụ thể sát hợp với thực trạng địa phương để bảo tồn phát huy giá trị nghệ thuật Xòe Thái trong bản sắc văn hóa đặc thù các dân tộc ở địa phương mình một cách bền vững và được cộng đồng dân cư chấp nhận như là nhu cầu đời sống tinh thần của họ. (Kinh nghiệm thực tế ở thị Xã Nghĩa Lộ - tỉnh Yên Bái. Từ thực trạng Xòe Thái đã bị mai một, pha trộn và còn rất ít người biết được nguyên bản, nhưng đến nay, đa số người dân ở Thị Xã đều yêu thích Xòe và biết Xòe nhất là thế hệ trẻ, không có cuộc vui nào trong cộng đồng mà không có Xòe, người dân nơi đây coi Xòe là món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày của họ. Nghệ thuật Xòe Thái Nghĩa Lộ, Mường Lò - tỉnh Yên Bái đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia và điều quan trọng hơn là Tỉnh và Thị Xã đã có định hướng, giải pháp bảo tồn, phát huy và tổ chức sự kiện văn hóa để gắn bảo tồn, phát huy nghệ thuật Xòe Thái với phát triển du lịch địa phương trở thành hoạt động thường niên hàng năm)

2. Các địa phương cần có kế hoạch cụ thể tập hợp các nghệ nhân, những người am hiểu, người nắm giữ, yêu thích Xòe Thái để viết sách, xây dựng tập bài giảng hoặc có đề tài khoa học nghiên cứu, bảo tồn, lưu truyền Xòe Thái tại địa phương mình. Đây là biện pháp hết sức quan trọng không để Xòe Thái, nghệ thuật Xòe Thái ở địa phương mình, vùng mình bị mai một, lai căng, vay mượn vùng khác mà mất đi giá trị truyền thống đặc sắc nhất. (Qua đi thực tế một số nơi của nhóm làm đề tài Xòe Thái, chúng tôi nhận thấy, ở các vùng hầu hết Xòe chỉ được truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng người Thái, chúng tôi chưa thấy có công trình nghiên cứu hay cuốn sách viết lại, ghi lại về Xòe Thái một cách bài bản, đầy đủ, khoa học. Trong khi đó những nghệ nhân, người nắm giữ, biết các điệu Xòe, nghệ thuật Xòe truyền thống ở các vùng còn rất ít mà họ đều đã cao tuổi, nếu đội ngũ này không được phát huy để viết sách hay truyền lại thì nguy cơ mai một giá trị truyền thống trong Xòe Thái là thực tế hiện hữu. Đối với Thị Xã Nghĩa Lộ từ khi chúng tôi làm đề tài khoa học, đặc biệt là xây dựng được tập sách và đĩa CD về 6 điệu Xòe Cổ, đồng thời tổ chức truyền dạy cho các thế hệ trong cộng đồng dân cư, trong các trường học trên địa bàn thì nhận thức và ý thức việc bảo tồn, gìn giữ, lưu truyền Xòe trong các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ được phát huy hơn, góp phần giữ được bản sắc văn hóa truyền thống một cách bài bản và sâu rộng hơn).

3. Mỗi địa phương cần làm tốt công tác tuyên truyền trong cộng đồng dân cư về vai trò, giá trị văn hóa truyền thống dân tộc nói chung và nghệ thuật Xòe Thái nói riêng để nâng cao nhận thức, ý thức của các tầng lớp nhân dân trong việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình (Nhân dân phải là chủ thể). Quan tâm mở các lớp truyền dạy Xòe nhất là trong thế hệ thanh, thiếu niên. Như ở Nghĩa Lộ hiện nay, từ tập bài giảng, đĩa CD về 6 điệu Xòe Cổ đã được đưa vào các trường học, các đội văn nghệ nòng cốt và các điểm du lịch cộng đồng, rất mừng là 100% trường học và các Xã, Phường trên địa bàn đã triển khai dạy Xòe. Tại các Trường học, Xòe được đưa vào dạy trở thành hoạt động sôi động trong giờ nghỉ giải lao hay trong tiết học ngoại khóa hoặc trong các sự kiện văn hóa, văn nghệ và ngày lễ của Trường. Có Trường còn đưa Xòe đi truyền dạy và giao lưu với các trường Tỉnh bạn. Thông qua đó tạo sự yêu thích và khơi dậy lòng tự hào, tự tôn về bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình cho thế hệ trẻ.

4. Hàng năm địa phương cần tổ chức các hoạt động văn hóa, các sự kiện, hội thi Xòe để chính người dân là chủ thể được tham gia trình diễn và đây là dịp để mỗi người dân được tự mình quảng bá và có ý thức bảo vệ, nuôi dưỡng các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình cũng như giá trị nghệ thuật Xòe Thái. Đồng thời làm tốt công tác quảng bá, tuyên truyền, giới thiệu với du khách trong và ngoài nước về văn hóa đặc thù gắn với phát triển kinh tế - Xã hội địa phương mình. Ở Nghĩa Lộ - tỉnh Yên Bái hiện nay sự kiện tuần văn hóa- du lịch Mường Lò được diễn ra thường niên hàng năm, kinh phí chi từ ngân sách nhà nước rất ít, các hoạt động chủ yếu đều được xã hội hóa, huy động sự vào cuộc của chính người dân nơi đây, nhất là màn đại Xòe đều do các nghệ nhân, quần chúng nhân dân các thế hệ thực hành trình diễn với khí thế hừng hực của lòng dân và đã trở thành niềm tự hào, niềm đam mê của bà con các dân tộc ở Thị Xã mà không có giá trị vật chất nào có thể so sánh được.

5. Nhà nước cần quan tâm có chính sách ưu đãi, hỗ trợ nghệ nhân dân gian, nghệ nhân ưu tú phù hợp hơn nữa. Các địa phương cần có kinh phí hỗ trợ, khuyến khích động viên những người nghiên cứu, sưu tầm văn hóa truyền thống dân tộc. Hàng năm có kinh phí hỗ trợ mở các lớp truyền dạy, các hoạt động quảng bá tuyên truyền, phục dựng các giá trị văn hóa tiêu biểu có nguy cơ mai một. Cần có giải pháp đồng bộ, bài bản, khoa học để tiếp tục phát huy, nâng cao giá trị Xè Thái trong đời sống xã hội, đặc biệt sau khi nghệ thuật Xòe Thái chính thức được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

 (Như ở vùng Mường Lò, Nghĩa Lộ trong những năm qua công tác bảo tồn phát huy các giá trị văn hoá đặc thù dân tộc, nhất là văn hóa dân tộc Thái được nhà nước vinh danh: Nghệ thuật Xòe Thái là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; Nghệ thuật trình diễn “Hạn khuống” là di sản văn hóa phi vật thể Quốc Gia. Đồng thời địa phương xác lập được ba kỷ lục guinness Việt Nam về: Mâm Xôi ngũ sắc- lớn nhất Việt Nam; Màn Đại Xòe- lớn nhất Việt Nam và Chiếc Khèn Bè Thái- lớn nhất Việt Nam. Chính từ những giá trị văn hóa được tôn vinh đó đã tạo thành sức mạnh, niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Thị Xã và cũng là động lực để mỗi người dân có tinh thần, ý thức trách nhiệm hơn nữa trong việc cùng nhau gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong đó có Xòe Thái. Nên trong các hoạt động, sự kiện văn hóa văn nghệ hàng năm của địa phương các tầng lớp nhân dân tham gia rất nhiệt tình, trách nhiệm, việc huy động hàng ngàn người dân tham gia màn Đại Xòe thuận lợi hơn nhiều so với trước đây).

  Các địa phương quan tâm có chính sách, cơ chế hỗ trợ mời gọi các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư, mở rộng kinh doanh, dịch vụ- du lịch, xây dựng sản phẩm có chất lượng, có thương hiệu từ các giá trị văn hóa đặc thù trong đó có Xòe Thái gắn với phát triển du lịch sinh thái vùng Tây bắc. Liên doanh, kết nối tua tuyến du lịch để giới thiệu, quảng bá nghệ thuật Xòe Thái ở các địa phương vùng Tây Bắc với các vùng trong nước và Quốc Tế hơn nữa.

  Trên đây là một số vấn đề cần quan tâm trong quản lý, bảo vệ và phát huy nghệ thuật Xòe Thái  trong xã hội đương đại, được đúc rút từ kết quả đề tài khoa học thu được cũng như thực tế ở địa phương chúng tôi trong thời gian qua, xin được tham góp để cùng trao đổi./.

------------

(*) Tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc tế “Bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật Xòe Thái trong xã hội đương đại” diễn ra tại Hà Nội, 10/2019.

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter