Truyện ngắn của Nguyễn Hiền Lương
Sau chiến dịch Quảng Trị, Tiểu đoàn 12 đặc công được lệnh rút về hậu cứ Hướng Hóa huấn luyện. Gọi là “hậu cứ” cho oai, thực ra nó chỉ là một bãi khách nằm sâu giữa rừng già sườn Đông Trường Sơn. Cây cối rậm rạp, um tùm, lại đang là mùa đông, sương phủ dày đặc. Thấp thoáng trong rừng sương là những cây cổ thụ lù xù, đầy rêu bám. Họa hoằn mới có những tia nắng nhợt nhạt chợt lóe lên trên vòm lá đan kín vào nhau dày dịt, rồi lại nhanh chóng tắt lịm. Mỗi khi những cơn gió ào qua, tán lá rung động, những hạt sương lại đua nhau rơi ràn rạt xuống nền đất nâu sẫm, ẩm ướt. Ra ngoài bìa rừng nhìn lên đỉnh núi cũng chỉ thấy ngút ngàn mây phủ.
Gần một tháng trời, ngày ngủ đêm tập. Các khoa mục huấn luyện chính là vận động, tập kích cứ điểm trong địa bàn thành phố. Tập rồi diễn tập, công phu, kỹ lưỡng như đánh thật, song tuyệt nhiên không ai được biết là sẽ đánh ở đâu. Các “tham mưu con” tự xem đầy mình kinh nghiệm cũng bó tay. Một sáng, thấy trời sáng sủa, ấm áp, Hùng chui ra khỏi lán, xách súng đi về cuối bìa rừng. Hy vọng khi nắng lên, sương mù tan có thể nhìn rõ cảnh núi non, sông suối Đông Trường Sơn. Thật may, Hùng vừa đến nơi thì có nắng, sương mù đột ngột tan rất nhanh. Cảnh vật gần, xa dần dần hiện. Những cánh rừng mấy bữa trước còn xác xơ, khô héo vì bom, pháo, chất độc hóa học, sớm nay bỗng biêng biếc một màu xanh non tơ. Phía dưới thung lũng, hai bên bờ suối trải dài một màu vàng dịu của hoa Mai rừng đang bừng nở. Nhìn ra xa, dòng Sê Bănghiêng bắt nguồn từ Tây Trường Sơn như một sợi khói ngoằn ngoèo uốn lượn đang bay lên từ tấm thảm xanh non tơ của đại ngàn. Mùa xuân đến rồi ư! Phải là mùa xuân thì cây cối mới đâm chồi nảy lộc xanh thế chứ. Đúng là bom đạn của kẻ thù dẫu có khốc liệt đến đâu thì cũng không thể ngăn cản, không thể tiêu diệt được sức sống của mùa xuân đang trỗi dậy trên các triền núi. Mùa xuân Trường Sơn chỉ khác mùa xuân Hoàng Liên Sơn quê Hùng là không có hoa Ban và hoa Tớ dẩy. Giờ này chắc là Ban đã nở trắng, còn Tớ zẩy cũng thắm núi Hoàng Liên rồi. Chao ôi, nhớ quá những lần cùng Siêng vào núi hái hoa Ban về làm món nộm ngày Tết...
Đang mê mải ngắm nhìn, chợt có tiếng gọi giật sau lưng, Hùng giật mình, quay lại. Thì ra là Đức Nghĩa Lộ, vừa đồng hương vừa cùng tiểu đội. Chưa đợi Hùng đáp, Đức đã bảo: Ông ra đây lâu chưa? Sắp tết rồi đấy. Cả tháng nay, ngày ngủ, đêm tập, mệt nhoài, chẳng còn biết đến thời gian nữa. Giờ thấy cây cối đâm chồi nảy lộc, mai rừng bừng nở mới biết đã là mùa xuân, là sắp đến tết, tự dưng lại thấy nhớ nhà nôn nao…
Hùng vỗ vai Đức bảo:
- Ừ Tết mà! Tết đến, ai chẳng nghĩ về sự sum họp, chẳng nhớ về gia đình, người thân, quê hương, lính tráng bọn mình nay sống, mai chết lại càng nhớ…
Mắt Đức vẫn không nguôi nhìn về phương Bắc, giọng đầy bồi hồi, ngắt lời Hùng:
- Quê mình từ ngày ông Táo chầu trời là đã nhộn nhịp lắm rồi. Nào sắm quần áo mới cho lũ trẻ, nào vào rừng lấy lá dong, ra bãi dựng cây đu, làm sàn Hạn khuống, chuẩn bị mổ lợn, ngâm gạo gói bánh, làm xôi ngũ sắc… Khi gói bánh chưng, tết nào mẹ cũng gói riêng cho anh em mình mỗi đứa một chiếc bánh con, để bóc ra ăn ngay lúc đón giao thừa. Đang đói, được ăn miếng bánh nóng hôi hổi, thơm phưng phức, úi giời ôi, cứ là lịm hết cả người…
Bỗng có tiếng máy bay vè vè. Một chiếc OV10 trông như cái bồ cào bay ngang qua trên đầu Đức và Hùng. Nó bay thấp đến nỗi nhìn rõ cái đầu thằng giặc lái nghiêng nghiêng, ngó ngó tìm kiếm mục tiêu. Bay ngay sau cái OV10 là một chiếc L19, chõ hẳn cái loa xuống, phát ra cái giọng eo éo nghe đã thấy muốn ọe: “Hỡi các cán binh Việt cộng! Tết sắp đến rồi…!”. Đức cau có văng tục: “Mẹ cha mày, lại lảm nhảm làm mất cả cái sự nhớ nhà của bố”. Tốp OV10, L19 bay qua được một lúc thì một dàn phản lực gầm rú, hùng hổ lao tới, cắt bom. Cánh rừng trước mặt nhoáng nhoàng chớp đỏ, rồi những đụn khói dựng lên đen kịt cả thảm rừng. Những cành cây bị bom nổ hất tung lên cao rồi lả tả rơi xuống như xác pháo. Hùng bảo:
- Chúng nó định cắt tết bọn mình đây! Thôi về đi, xem C mình chuẩn bị tết thế nào, đỡ anh nuôi một tay.
Hai anh em về gần đến lán, đã nghe thấy tiếng Đại đội trưởng Ứng ồm ồm vang lên:
- Tiêu chuẩn tết mặt trận cấp về theo từng trung đội. Hai người một bao Tam Đảo bao bạc, cộng thêm một bao Rubi chiến lợi phẩm. Anh em cứ là tha hồ mà nhả khói nhé. Lại thêm bốn người một gói trà Thanh Tâm, loại bao hồng đấy. Còn kẹo Hải Châu mỗi người 20 chiếc. Thịt lợn thì mặt trận cấp cho mỗi đại đội một con, nhưng phải lên bản đồng bào Vân Kiều bên sườn Tây bắt về. Nếp tiêu chuẩn và dân các bản dưới chân núi mang đến ủng hộ bộ đội đủ gói mỗi người hai chiếc bánh chưng.- Dừng lại một chút rồi Đại đội Trưởng Ứng nói tiếp- Nói chung, tết nhất ở chiến trường như thế là tươm lắm rồi. Năm nay trên cho ăn tết to là thưởng công cho anh em mình đấy. Về thời gian, ta cũng được nghỉ tập ba ngày để ăn tết. Để cho không khí đón xuân, vui tết thật xôm, tớ nghĩ ra sáng kiến này: C mình có nhiều tỉnh, mỗi tỉnh lại có món ẩm thực riêng. Vì vậy mỗi nhóm tỉnh, suy nghĩ làm một món ăn gì đó mang đậm hương vị quê mình góp vào cỗ tết chung của đại đội. Ngoài thịt lợn, ta có thể xuống suối bắt cá, hay lên rừng bẫy gà, hái rau, măng. Ý các cậu thế nào?
Cả đại đội vỗ tay rầm rầm thay cho câu trả lời. Tiếp theo, Chính trị Chỉnh lên phát động phong trào sáng tác câu đối đón xuân trong toàn đại đội. Yêu cầu phải nói được thời gian và không khí đón xuân, vui tết của bộ đội. Giải thưởng cho giải nhất là ba chiếc bánh chưng, giải nhì hai chiếc và giải ba là một chiếc.
Ngay buổi chiều, Hùng, Đức và mấy tay Yên Bái chụm đầu họp bàn một hồi, rồi chia thành hai tốp. Một tốp xách dao găm vào rừng chặt mấy cây lồ ô về chẻ nan. Tốp kia thì xuống bờ suối bẻ mấy bó lá cơi ôm về. Thấy mọi người tròn mắt ngó nghiêng, Hùng đầy vẻ hãnh diện bảo: Các ông biết không? Này nhé, lồ ô này bọn tôi chẻ thành nan để đan lắn đơm cá. Vùng này lâu nay chẳng ai mò đến bắt cá nên cá nhiều và dạn lắm. Bữa trước đi tắm suối, cả một đàn cá Sỉnh đến vài chục con, cứ bơi vô tư như chỗ không người, còn rỉa cả vào chân mình. Chỉ cần lấy lá cơi này, bỏ vào mũ sắt giã nát rồi vứt xuống suối khuấy lên cá sẽ bị say đứ đừ. Chọn chỗ lòng suối nhỏ và nông, lấy đá xếp lại thành đập, chỉ để hở vừa đủ đơm cái lắn vào đó. Lúc cá say lấy sào khua nước là cá bơi xuôi chui hết vào lắn. Loại cá Sỉnh này thịt dai chắc, lại thơm ngọt, làm món “pa pỉnh tộp” (cá nướng úp) đặc sản Thái bọn tớ, chỉ có mà ngon hết sảy. Các cụ bản tớ bảo: "Gà tơ tần đem biếu, không bằng pa pỉnh tộp đem cho" đấy.
Nghe Hùng tả về món “pa pỉnh tộp”, nhiều cái miệng đã “chèm chẹp” rồi xung phong đi bắt cá cùng nhóm Yên Bái. Đã 27 tháng Chạp, dù không có lịch nhưng ai cũng nhẩm nhớ từng ngày. Mặc kệ “thằng” OV10 với L19 vẫn rè rè trên đầu không dứt, ngoài bộ phận trực chiến, tuần tra, còn lại cả đại đội đều hăm hở chuẩn bị món ăn quê hương và vắt óc để sáng tác câu đối. Tốp Cao Bằng thì tìm lá lốt để cuốn chả. Tốp Hà Nam đẽo chày để giã giò trong mấy cái mũ sắt dùng làm cối. Nhóm Yên Bái cũng đã tìm được quả “mắc khén” và hạt dổi đem nướng rồi giã nhỏ để ướp cá. Chú “lợn tiêu chuẩn” dễ thường phải ngót nghét một tạ, đã được khiêng về. Lợn Vân Kiều nuôi thả rông, lông dựng ngược, mõm dài như mõm lợn rừng, thở hồng hộc. Trên lán Ban chỉ huy đại đội, mấy hòm đạn B40 ghép lại thành một cái bàn. Một bi đông nước chè cùng mấy cái bát “B52” xếp ngay ngắn. Đầu bàn có một cành mai rừng cắm vào ống lồ ô. Loại mai rừng này hoa có 5 cánh, nhỏ và thưa, không dày bông như mai nhà nhưng tươi rất lâu. Ba câu đối: “Đón Xuân 68 không quên nhiệm vụ/ Vui Tết Mậu Thân quyết thắng quân thù”; “Cả nước đang thi đua sôi nổi đón tết Mậu Thân/ Đại đội ta cũng quyết lập công chào xuân sáu tám”; “Nơi hậu phương em làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt/ Ngoài tiền tuyến anh quyết giết giặc lập công thống nhất non sông”, lọt vào vòng chung khảo được đồng chí liên lạc lấy lõi pin thối giã nhuyễn trộn nước viết lên tấm gỗ vỏ hòm đạn để cả đại đội bình chọn nhất, nhì, ba. Mọi người lục ba lô, chọn bộ quần áo nào tươm tất nhất để dành mặc ăn tết. Ai cũng mong ngóng đến giao thừa, nghe Bác đọc thơ chúc tết.
Không khí đón tết của đại đội đang rộn ràng thì tối 28 tết, Đại đội Trưởng Ứng từ trên Tiểu đoàn bộ về đến nơi đã phát lệnh hành quân ngay. Tất cả đồ ăn đã chuẩn bị được mang theo. Đại đội trưởng bảo để ăn tết như thời vua Quang Trung cho quân sĩ ăn tết dọc đường hành quân ra Bắc Hà tiêu diệt quân Thanh. Đại đội trưởng không nói hành quân về đâu, chỉ bảo sẽ có giao liên dẫn đường. Đi được một chặng chừng 7, 8 cây số thì đổi giao liên. Mỗi chặng có một giao liên. Khi bàn giao xong, người dẫn chặng trước quay lại chứ không đi cùng. Hành quân suốt đêm. Đến sáng được lệnh dừng, bộ đội tản vào các cánh rừng hạ trại nghỉ, ngủ cả ngày. 7 giờ tối lại tiếp tục hành quân. Sáng 30 tết toàn đại đội lại tập kết vào bìa rừng, hạ trại. Bữa chiều 30 âm lịch tức ngày 31/1/1968, đại đội tổ chức cho bộ đội ăn tết dã ngoại nhưng vẫn phải bảo đảm tuyệt mật. 18 giờ, Đại đội Trưởng Ứng tập trung đại đội phổ biến nhiệm vụ: Thông báo cho các đồng chí biết, chúng ta đang ở rất gần thành phố Huế. Đêm nay đại đội ta cùng toàn tiểu đoàn và nhiều cánh quân khác sẽ đồng loạt tấn công giải phóng Huế. Trên cho biết, Huế có nhiều căn cứ quân sự của Mỹ và ngụy quân cần tiêu diệt, gồm: Sở chỉ huy Sư đoàn 1 ngụy, Trung tâm Huấn luyện Đống Đa, Thiết đoàn 7 Kỵ binh, đồn Mang Cá, sân bay Tây Lộc, khu phái bộ cố vấn Hoa Kỳ… Song Huế còn là một cố đô, có nhiều di tích lịch sử- văn hóa, ta cần phải giữ gìn. Có nhiều lực lượng tham gia chiến dịch. Tiểu đoàn đặc công 12 ta nằm trong đội hình của cánh quân phía Bắc. Đây là hướng tấn công chính, có nhiệm vụ đánh chiếm Thành Nội, đồn Mang Cá, sân bay Tây Lộc, Cột Cờ, tiêu diệt các cơ quan đầu não của Mỹ và Việt Nam cộng hòa. Sau đó phát triển, chiếm lĩnh toàn bộ khu vực tả ngạn thành phố và huyện Hương Trà. Đêm nay, đại đội ta và một đại đội bộ binh sẽ từ cửa An Hòa, tiến vào sườn tây đánh chiếm đồn Mang Cá. Hiệu lệnh tấn công là bài thơ chúc tết Mậu Thân của Bác Hồ phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam… Các đồng chí rõ chưa? “Rõ”. Tiếng rõ được đồng thanh cất lên trong lồng ngực những người lính, để giữ bí mật, dù nhỏ nhưng đanh thép và đầy ý chí quyết thắng.
Từ lúc nhận lệnh vào giải phóng Huế, ai cũng náo nức. Cả đại đội chưa ai đến Huế. Song ai cũng bảo Huế đẹp lắm, nhất là con gái Huế đã đẹp, lại còn mộng mơ, yêu kiều, tình cảm. Có anh chàng còn khe khẽ ngâm bằng giọng Nghệ mấy câu thơ của Tố Hữu được học hồi cấp III: “Trên dòng Hương Giang/ Em buông mái chèo/ Trời trong veo/ Nước trong veo…”.
18 giờ 30 phút, một o giao liên tới đại đội. O mặc bộ bà ba, vai khoác khẩu AK, đầu đội mũ tai bèo, khẽ cất tiếng chào các anh giải phóng. Đúng là giọng Huế nghe ngọt ngào như lời ru. Trời nhập nhoạng tối, chẳng ai nhìn rõ mặt o nhưng ai cũng xì xào khen “Đẹp rứa”. Đức còn thì thào: Ước chi được nắm tay o một cái… có sao cũng bõ. Hùng khẽ gắt: Cái thằng… chỉ gở mồm. Giải phóng Huế xong, mày tha hồ mà cầm tay các o đi dạo sông Hương.
Đúng 19 giờ, đại đội bắt đầu rời cửa rừng, hành quân lặng lẽ trong đêm tối. Mưa xuân lâm râm, gió bắc hun hút thổi nhưng không ai cảm thấy lạnh. Hành quân chừng 6 tiếng thì được lệnh dừng nghỉ, kiểm tra lại vũ khí, trang bị, ém quân vào các làng ven đô. Sát nách Huế rồi. Đã nhìn thấy những dòng chữ bằng ánh sáng điện màu chạy loang loáng trên các tòa nhà cao tầng trong thành phố. Khô