Vị tướng trấn ải vùng Tây Bắc

                                                Ký của THẾ QUYNH

Từng gắn bó với Tây Bắc từ những ngày tiền khởi nghĩa Cách mạng Tháng 8; rồi được phân công làm Phó Bí thư Khu ủy, Giám đốc Công an Khu Tây Bắc; cố Thứ trưởng, Tư lệnh kiêm Chính ủy Lực lượng Công an Nhân dân vũ trang. Trung tướng Trần Quyết luôn tận tụy với công tác giữ gìn an ninh trật tự vùng phên giậu của Tổ quốc.

Làng tôi- làng Ngọc Động, xã Hoàng Đông, huyện Duy Tiên (nay là tổ dân phố Ngọc Động, phường Hoàng Đông, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam)  là một làng quê ở đồng bằng sông Hồng. Cái tên Ngọc Động nghĩa là động ngọc, nghe ra thật giầu có nhưng thuộc đất “chiêm khê mùa thối” nên quanh năm suốt tháng vẫn nghèo. Theo thần tích tại bia ngôi Đình đã được xếp hạng Di tích Lịch sử- Văn hóa cấp Quốc gia: Vốn xưa vào thời Hùng Vương thứ 6 là Huy Vương. Tại Nghệ An có ông Phạm Hiên và vợ là Hoàng Thị Việt, gia cảnh sung túc chăm làm việc thiện song hiếm muộn đường con cái. Vợ chồng ông không nản càng gia tâm làm phúc để cầu nguyện sớm có người nối dõi. Trời chẳng phụ lòng người, không lâu sau bà Hoàng Thị có mang. Trải qua 12 tuần trăng đến ngày mồng 10 tháng 8 năm Đinh Sửu sinh hạ một trai khôi ngô tuấn tú, ông bà quý lắm đặt tên là Phạm Phúc. Phạm Phúc lớn lên trí tuệ siêu phàm, học một biết mười, văn võ toàn tài, thông minh xuất chúng, mọi người đều cho là thần đồng giáng thế. Năm Phạm Phúc 18 tuổi thì cha mẹ đều qua đời, chàng vô cùng thương xót tìm đất an táng, cư tang nghiêm cẩn. Bấy giờ Phạm Phúc có người cậu ruột tên Hoàng Độ, là Lạc Hầu cai quản quận Huyện Vũ đóng ở kinh, bèn tìm đến nương tựa. Khi ấy Cao Miên ở phương Nam đem 20 vạn quân vào xâm phạm bờ cõi, Hùng Huy Vương cất Hoàng Độ làm nguyên soái, đốc 10 vạn quân đi đánh giặc. Hoàng Độ tiến cử cháu ruột là Phạm Phúc làm tiên phong đi cùng. Hai ông tiến quân vào đạo Sơn Nam, đánh lớn một trận, Phạm Phúc tả xung hữu đột giữa chốn ba quân như vào chỗ không người, quân địch thua to tháo chạy về nước. Hai ông dâng biểu tâu công thắng  trận. Hùng Huy Vương xuống chiếu vời về triều, phong Hoàng Độ làm Sơn Nam bộ chúa; Phạm Phúc làm trưởng quản ở Duy Tân. Ông thấy đất Động Linh hình thế núi sông rồng châu hổ ấp, hoàng xà uốn khúc, chiêng trống tượng hình liền bưng dựng một hành dinh để nghỉ ngơi và nắm giữ quân quyền. Tại đây ông nghĩ việc khuyến khích nông trang, mở nghề thủ công buôn bán. Ông lại tâu xin Vua miễn các sai dịch cho dân, cấp thêm vàng mua ao ruộng làm công dụng hương hỏa cho làng. Được vài tháng, Hoàng Công lâm bệnh qua đời, ông dâng biểu tấu về triều đình, Hùng Huy Vương phong Hoàng Độ là Bảo Quốc Đại Vương, triệu ông Phạm Phúc về trấn thủ đạo Sơn Nam. Lúc bấy giờ ở phương Bắc có giặc Ân do tướng Thạch Linh cất quân sang  xâm lược nước ta, thanh thế rất lớn.  Hùng Huy Vương sai sứ thần Triệu Phạm Phúc về triều. Ông vâng lệnh chọn 25 người ở trang Động Linh làm tâm phúc rồi tiến quân đánh giặc, hơn 20 trận không phân thắng bại. Hùng Huy Vương bèn lập đàn tế trời đất, được Long Quân hiện hình, chỉ cách tìm người tài giữ nước. Huy Vương sai sứ giả đi tìm, đến làng Phù Đổng, quận Vũ Ninh thì tìm được Thiên Vương (tức Thánh Gióng). Thiên Vương hét lên một tiếng cao lớn dị thường, cưỡi ngựa sắt phi như bay tới Châu Sơn đánh lớn một trận, chém chết tướng Thạch Linh. Đang đánh giặc roi sắt bị gãy, Thiên Vương nhổ tre để đánh tiếp, giặc thua chạy tan tác. Khi ngựa sắt về tới núi Ninh Sóc thì Thiên Vương bỏ áo giáp, cưỡi ngựa bay lên trời. Tàn quân của giặc còn lại bị ông Phạm Phúc đuổi giết ra tận bờ biển mới thu quân về. Khi về đến Đằng Châu thì ông Phạm Phúc cũng hóa luôn, bấy giờ là ngày mồng 10 tháng 11. Hùng Huy Vương tôn phong Thiên Vương là Phù Đổng Thiên Vương; còn với ông Phạm Phúc cho nhân dân bốn khu trang Động Linh lập miếu trên nơi hành dinh năm xưa thờ tự.

Từ nhỏ, tôi cũng nghe cụ cao niên truyền lại rằng làng mình hình con thuyền rẽ sóng, có các nấm đất hình voi, hình ngựa; lại cả cờ súy, lọng tàn mà mãi chẳng sinh quan. Ấy là điều ước “một người làm quan cả họ được nhờ” theo lối nghĩ xửa xưa. Nhưng cũng từ chính mảnh đất nghèo, ông Nguyễn Bính đi xa học được nghề làm mây tre đan mang về truyền dạy để biến Ngọc Động thành làng nghề và vinh dự chế tác ra bộ salon mây và chiếc ghế xích đu tặng Hồ Chủ tịch (nay vẫn trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh). Những người con của làng đi theo cách mạng trưởng thành và cũng đã có một vài người nổi danh như nhạc sĩ Phong Nhã với nhiều ca khúc viết cho thiếu nhi hay Trung tướng Trần Quyết- Tư lệnh kiêm Chính ủy Lực lượng Công an Nhân dân vũ trang, Thứ trưởng Bộ Công an và sau này là Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao. Riêng về Trung tướng Trần Quyết- tên thật là Phạm Văn Côn, sinh ngày 12 tháng 2 năm 1922 trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Khi lớn lên, ông thường xuyên đến trông nhà cho người chú ruột, một đảng viên Cộng sản ngụ cư ở huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình và sớm chịu ảnh hưởng của chú. Năm 1939, lúc phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương bị chính quyền thực dân Pháp đàn áp, ông đã nhận tội tàng trữ tài liệu để cứu người chú bị mật thám bắt trước đó. Do chưa đến tuổi thành niên và chưa đủ bằng chứng kết tội nên chỉ bị giam một thời gian ngắn. Sau khi được trả tự do, ông trở về quê nhà và tìm cách bắt liên lạc với tổ chức để hoạt động. Năm 1940, ông tham gia Đoàn thanh niên Phản đế Đông Dương và hoạt động tích cực trong việc xây dựng cơ sở cách mạng. Nhà ông cũng trở thành trạm liên lạc của các lãnh đạo Xứ ủy Bắc kỳ. Năm 1941, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4 năm 1942, do bị lộ ông cùng một số đồng chí bị bắt, bị đưa về Sở Mật thám Nam Định giam và thẩm vấn trong 2 tháng rồi đưa về Hà Nam để xét xử. Tòa sơ thẩm kết án 3 năm tù với 5 năm quản thúc. Ông cùng các đồng chí chống án và được tòa thượng thẩm xử trắng án do chứng cứ chưa rõ ràng. Tuy nhiên vẫn không được trả tự do và bị đưa đi an trí ở căng Bá Vân. Cuối năm 1944, khi phong trào Việt Minh ở Thái NguyênĐình CảTràng XáBắc Sơn lên cao. Lo ngại sự liên lạc giữa các chính trị phạm với bên ngoài, chính quyền thực dân Pháp đã cho di chuyển gần 100 tù chính trị từ Căng Bá Vân sang Căng Nghĩa Lộ. Một trung đội lính khố xanh dưới quyền chỉ huy của tên đồn trưởng người Pháp và những tên tay sai như Chánh Quản Nhượng, Đội Mai, Cai Tác... thay nhau canh gác nghiêm ngặt. Tuy vậy, ngay sau khi về Căng, các chiến sĩ cách mạng bắt tay ngay vào tổ chức hoạt động trong trại giam. Chi bộ Đảng trong Căng đã họp và nhanh chóng đề ra chương trình hoạt động. Hai tổ tuyên truyền được thành lập, một tổ làm công tác binh vận và cho ra đời tờ báo "Đường Nghĩa"; một tổ tiếp tục tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, của Mặt trận Việt Minh kêu gọi quần chúng đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù, giác ngộ anh em lính khố xanh theo con đường chính nghĩa. Ngoài tuyên truyền, vận động giác ngộ cách mạng, anh chị em chính trị phạm còn tổ chức nhiều hoạt động đấu tranh trực tiếp với kẻ thù. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính và thực dân Pháp đã nhanh chóng đầu hàng. Trước tình hình đó, Chi bộ Căng Nghĩa Lộ bàn kế hoạch phá Căng tự giải thoát, tham gia chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Nhưng chiều ngày 17/3/1945, khi Phó sứ Yên Bái tên là Penlie cùng Đồn trưởng Nghĩa Lộ là Xiver vào kiểm tra Căng, anh em chính trị phạm của ta do nôn nóng đã xông đến quật ngã tên Phó sứ, bắt tên này phải ra lệnh mở cửa trại giam, giải thoát tù chính trị. Trong khi hai bên đang vật lộn, Quản Nhượng đã giằng súng của người lính gác bắn làm 2 đồng chí của ta hy sinh. Hai tên Pháp cùng Quản Nhượng chạy ra ngoài, Phó sứ lệnh cho tên chỉ huy lê dương về mang quân cùng vũ khí lên đàn áp. Người lính bị Quản Nhượng giằng súng thấy thế liền hô to “chạy đi". Thế là tất cả chính trị phạm ùa ra khỏi cổng trại, dìu nhau thoát khỏi vòng vây quân thù. Quá trình bạo động xảy ra, 9 chiến sĩ cách mạng của ta hy sinh. Những chiến sĩ cách mạng thoát khỏi ngục tù, mặc dù bị thực dân Pháp truy nã gắt gao nhưng họ được nhân dân Nghĩa Lộ che chở, giúp đỡ thoát khỏi vòng vây của kẻ thù. Với đồng chí Trần Quyết, ông được sự che chở của một phụ nữ dân tộc Tày. Người phụ nữ đó, theo thông tin của nhà văn Hà Lâm Kỳ tên thật là Đào Thị Cầu, quê xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn. Bà là em gái ông Đào Tiến Lộc- cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên Trưởng ty Công an tỉnh Yên Bái. Vì người con cả tên Thanh nên mọi người quen gọi bà là mẹ Thanh. Gần 40 năm sau, khi đã mang hàm Trung tướng, Tư lệnh Lực lượng Công an nhân dân Vũ trang, ông mới có dịp trở lại Văn Chấn- Nghĩa Lộ. Ông đến thăm Bảo tàng huyện, thắp hương trước Đài Tổ quốc ghi công, bia ghi danh 9 liệt sĩ đã cùng các ông phá ngục tù Nghĩa Lộ. Nhớ về người phụ nữ giúp mình năm xưa, Trung tướng Trần Quyết nói với ông Đỗ Khắc Cương bấy giờ là Bí thư Huyện ủy Văn Chấn, nhờ tìm giúp. Đồng chí Bí thư Huyện ủy đã cử người đi hỏi thăm, xác minh mới biết chính xác địa chỉ nhà ông bà Thanh. Ông bà vẫn còn, khỏe mạnh và rất nhớ người tù Cộng sản nhỏ thó, tóc húi cua, nhanh nhẹn đã chạy vào nhà mình khi bị kẻ thù truy đuổi. Ông lập tức đến thăm gia đình. Gặp lại Trung tướng Trần Quyết, ông bà Thanh rất đỗi vui mừng. Nhận gói quà từ tay ông và lời cảm ơn, người mẹ dân tộc Tày không cầm nổi nước mắt. Bà nghẹn ngào nói: "Trời vẫn còn có mắt để chúng ta được gặp lại hôm nay".

Sau khi vượt ngục, ông tìm về lại Hà Nam hoạt động và tham gia lãnh đạo cướp chính quyền tại địa phương. Tháng 6 năm 1946, ông được Trung ương phân công lên Sơn La làm Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh. Năm 1947, làm Bí thư Tỉnh ủy Sơn La, Ủy viên Khu ủy Khu 14. Năm 1948, Khu 14 sáp nhập vào Khu 10 thành Liên khu 10, ông được cử làm Ủy viên Liên khu ủy. Năm 1949, Liên khu Việt Bắc được thành lập, ông làm Ủy viên Liên khu ủy. Năm 1952, để chuẩn bị cho Chiến dịch Tây Bắc, Trung ương quyết định lập lại Khu ủy Tây Bắc và ông được phân công làm Khu ủy viên với bí danh Trần Quyết và cái tên đó theo ông đến cuối đời. Sau chiến dịch, ông được phân công giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Sơn La lần thứ 2. Đầu năm 1953, Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn cử ông sang làm Giám đốc Khu Công an Tây Bắc (gồm bốn Ty Công an trực thuộc là: Sơn LaLai ChâuLào CaiNghĩa Lộ) với nhiệm vụ tiếp quản vùng giải phóng, ngăn chặn đề phòng các hoạt động gây phỉ, nổi loạn ở biên giới Việt- Trung, biên giới Việt- Lào. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, ông đã góp nhiều công sức gây được ảnh hưởng của Việt Minh tại vùng Tây Bắc, tạo điều kiện cho sự ủng hộ của đồng bào các dân tộc với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ông lại được Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn giao nhiệm vụ là Trưởng ban Bảo vệ chiến dịch, góp phần không nhỏ trong việc bảo đảm an toàn cho Sở chỉ huy chiến dịch cũng như các tuyến giao thông chi viện. Năm 1955, ông được phân công làm Thường vụ Khu ủy, Giám đốc Công an Khu Tây Bắc và đến năm 1958 là Phó Bí thư Khu ủy. Trên cương vị này, ông là một chỉ huy chính trong những chiến dịch tiễu phỉ cũng như các chiến dịch phản gián, câu nhử, truy bắt các toán gián điệp, biệt kích của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tung ra miền Bắc. Là thuộc cấp của đồng chí Trần Quyết từ đầu những năm 50 của thế kỷ trước, Thiếu tướng Nguyễn Tấn- nguyên Phó Tư lệnh thường trực Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng còn nhớ nhiều kỉ niệm về người thủ trưởng cũ của mình. Ông kể: "Thời kỳ đầu Tây Bắc mới được giải phóng là giai đoạn khó khăn, vất vả nhất, đặc biệt đối với những người làm nhiệm vụ tiễu phỉ, trừ gian, xây dựng cơ sở, bảo vệ biên giới. Với cương vị là Thường vụ Khu ủy, Giám đốc Công an Khu Tây Bắc, ông xông xáo, có khi xuống tận cơ sở trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo tiễu phỉ, trừ gian ở Mường La, Mai Sơn (Sơn La), ở Hồ Thầu, Giào San (Lai Châu)… Ông luôn tỏ ra là một vị chỉ huy thông minh, mưu trí, đặc biệt là rất kiên quyết, sắc sảo và bám sát thực tế. Vào đầu tháng 1/1959, một tên phỉ được trinh sát giác ngộ đã bí mật mang súng ra hàng ta, xin lập công chuộc tội. Trinh sát báo cáo nguyện vọng của hắn với đồng chí Trần Quyết. Suy nghĩ một hồi lâu, ông đồng ý và hướng dẫn cho trinh sát cách "dùng phỉ đánh phỉ". Quả đúng như kế hoạch, tên phỉ đó đã bí mật mang súng quay trở lại hang ổ phỉ, bất ngờ bắn chết tên trùm phỉ Vàng A Chai rồi kêu gọi cả toán phỉ hơn chục tên về đầu thú chính quyền để hưởng lượng khoan hồng. Cũng vào đầu những năm 1959, ở huyện Văn Chấn (khi ấy thuộc tỉnh Nghĩa Lộ), bộ đội, công an nhân dân vũ trang truy quét và tiêu diệt hầu hết bọn phỉ, chỉ còn lại tên trùm phỉ Lý Tẩn Nha người Dao là ngoan cố không chịu ra hàng. Với khẩu súng và nhiều băng đạn trong tay, hắn ẩn náu trong một hang đá cao, địa thế hiểm trở; từ trên đó, hắn có thể quan sát đường đi và đội hình truy quét của bộ đội ta. Đồng chí Trần Quyết trực tiếp lên quan sát địa hình, địa vật thấy không thể bắt phỉ theo kiểu quân sự đơn thuần được mà phải mưu trí, khôn ngoan mới đạt kết quả. Sau khi phân tích tình hình, ông chỉ đạo đưa trinh sát vào các bản lân cận điều tra và được biết còn hai tên tay chân thường xuyên tiếp tế lương thực, thực phẩm cho hắn. Lập tức, ông chỉ đạo bắt giữ một tên, tên còn lại tiếp tục giáo dục, thuyết phục, cảm hóa và xây dựng thành đặc tình của ta. Trinh sát cho đặc tình bí mật vào hang tiếp tế lương thực cho Lý Tẩn Nha và tác động cho hắn biết là nơi ẩn náu đã bị lộ, phải tìm chỗ khác ở mới mong tiếp tế được.Trinh sát bày cho đặc tình chỉ cho hắn đến vị trí ẩn náu vừa an toàn, vừa dễ dàng tiếp tế. Nghe đặc tình phân tích địa điểm này có 2 đường đến, khi có tình huống bất trắc có thể tiến và thoái được, hắn quyết định làm theo. Nhưng cũng rất cảnh giác, hắn còn rút súng chĩa vào ngực đặc tình dọa "Nếu mày làm phản, tao sẽ bắn chết mày và cả gia đình". Được trinh sát hướng dẫn trước, đặc tình thản nhiên trả lời "Có dọn đi hay không là tùy ông thôi". Thấy thái độ bình tĩnh của đặc tình, hắn đành chấp nhận và hỏi "Bây giờ đi đường nào đến?". Đề phòng sự cảnh giác của tên trùm phỉ Lý Tẩn Nha, ông chỉ đạo cho phục kích trên cả 2 con đường. Đúng như dự kiến, đi được nửa đường tên trùm phỉ cáo già Lý Tẩn Nha bắt đặc tình phải đổi hướng đi đường khác. Nhưng hắn có ngờ đâu trên đoạn đường đó trinh sát cũng bố trí một tổ phục kích thứ 2. Chờ cho Lý Tẩn Nha lọt vào trận địa phục kích, các chiến sĩ xông ra bắt gọn tên trùm phỉ, tước vũ khí, làm hắn không kịp đối phó. Phần lớn số phỉ sau khi bị bắt được ta đưa vào các lớp quản huấn để cải tạo. Có những bài giảng do đồng chí Trần Quyết trực tiếp xuống giảng. Theo ông, mục đích của lớp quản huấn là làm cho họ thấy rõ âm mưu thâm độc của kẻ thù là lợi dụng sự nhận thức còn hạn chế của đồng bào các dân tộc để lừa bịp, lôi kéo chống đối cách mạng. Đồng thời, làm cho họ hiểu hơn đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là chính sách đại đoàn kết dân tộc và chính sách khoan hồng với những người lầm đường lạc lối. Nhiều người trong bọn họ sau khi học tập xong trở về làng bản đã chịu khó làm ăn, trở thành người lương thiện.

Năm 1963, ông được điều về Bộ Công an làm Cục trưởng Cục Bảo vệ nội bộ rồi lần lượt kinh qua các chức vụ Thứ trưởng, Tư lệnh kiêm Chính ủy Lực lượng Công an nhân dân Vũ trang. Với những cương vị này, ông là chỉ huy cao nhất của lực lượng công an, chỉ đạo điều tra nhiều vụ án hình sự quan trọng tại miền Nam, đồng thời chỉ đạo công tác an ninh như trấn áp lực lượng FULRO, phản gián, truy lùng các điệp viên của Mỹ cài lại Việt Nam thời hậu chiến cũng như các hoạt động biên phòng chống lại sự xâm nhập của ngoại bang. Từng là Ủy viên Ban Chấp hành, Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng; Đại biểu Quốc hội khóa VIII và được bầu là Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao. Ông giữ chức vụ đến tháng 10 năm 1992 thì nghỉ hưu và mất năm 2010. Với những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc, ông đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương, phần thưởng cao quý khác của Đảng, Nhà nước Việt Nam và quốc tế trao tặng. Với Tây Bắc, Trung tướng Trần Quyết luôn là hình ảnh đẹp trong lòng đồng bào các dân tộc nơi đây. Còn tại quê hương, bây giờ làng đã lên phố, con đường đất thuở thiếu thời ông đi đã được mở rộng, trải nhựa áp phan với đèn cao áp chiếu sáng đêm đêm. Nó cũng vinh dự được mang tên Trần Quyết như để ghi nhớ công ơn bậc tiền bối, đồng thời nhắc nhở thế hệ kế tiếp nguyện phấn đấu theo gương sáng “Ông tướng của làng”.

T Q

 

Các tin khác:

1-5 of 349<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter