• Loading...
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Yên Bái tập trung đẩy mạnh đưa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII vào cuộc sống
 
Thư ngỏ xin ý kiến nhân dân vào dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIX Đảng bộ tỉnh
Ngày xuất bản: 03/06/2020 9:30:00 SA

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX là sự kiện chính trị, xã hội quan trọng, là ngày hội lớn của Đảng bộ, thu hút đông đảo sự quan tâm, kỳ vọng của đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh; Đại hội có nhiệm vụ quan trọng là tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII và quyết định phương hướng, mục tiêu phát triển của tỉnh trong nhiệm kỳ 2020-2025 và những nhiệm kỳ tiếp theo.

Với nhiệm vụ được giao và trách nhiệm trước Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, xây dựng dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIX Đảng bộ tỉnh với quyết tâm chính trị và khát vọng đưa Yên Bái phát triển xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc, sớm trở thành tỉnh khá trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

Để Báo cáo chính trị thực sự có chất lượng, khả thi, phản ánh đầy đủ  tâm tư, tình cảm, mong muốn, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển của tỉnh Yên Bái trong những năm tới, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trân trọng xin ý kiến toàn thể nhân dân các dân tộc Yên Bái trong và ngoài tỉnh tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo Báo cáo chính trị. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh kêu gọi và mong muốn mỗi người dân Yên Bái hãy phát huy tinh thần trách nhiệm, tích cực tham gia, đóng góp trí tuệ, tâm huyết vào những vấn đề quan trọng của tỉnh, cùng chung sức, đồng lòng xây dựng quê hương Yên Bái ngày càng phát triển, nhân dân có cuộc sống ngày càng tiến bộ, hạnh phúc.

Mọi ý kiến đóng góp của nhân dân xin gửi trực tiếp đến Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy hoặc Báo Yên Bái, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Tạp chí Văn nghệ Yên Bái, Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái.

Trân trọng cảm ơn!

 

 DỰ THẢO BÁO CÁO CHÍNH TRỊ

của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVIII

tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX

--------

 

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020-2025 có nhiệm vụ quan trọng là đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm tới và những năm tiếp theo với phương châm "Dân chủ - Đoàn kết - Đổi mới - Sáng tạo - Phát triển" và chủ đề: Tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy truyền thống đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên; đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo, phát triển xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc; quyết tâm đưa Yên Bái trở thành tỉnh khá trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc[1].

 

Phần thứ nhất

KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH

LẦN THỨ XVIII, NHIỆM KỲ 2015 - 2020

 

5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ tỉnh, trong điều kiện đất nước đạt được những thành tựu quan trọng và tạo nhiều dấu ấn nổi bật: Chính trị - xã hội ổn định, kinh tế phát triển nhanh, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị có nhiều chuyển biến tích cực; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí đạt được kết quả quan trọng, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp đổi mới không ngừng được nâng lên. Trong tỉnh, những thành tựu to lớn sau hơn 30 năm đổi mới đất nước đã tạo tiền đề để tỉnh ta tiếp tục phát triển; tiềm năng, lợi thế của tỉnh được phát huy. Bên cạnh đó, tỉnh Yên Bái chịu nhiều tác động tiêu cực từ tình hình thời tiết biến đổi cực đoan, rét đậm, rét hại kéo dài, lũ ống, lũ quét, ngập úng, sạt lở đất nghiêm trọng gây thiệt hại lớn về người, tài sản của nhân dân và cơ sở hạ tầng của tỉnh; tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhất là đại dịch Covid-19 ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống, sinh hoạt của nhân dân.

Trong bối cảnh đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phát huy truyền thống đoàn kết, không ngừng đổi mới, sáng tạo, nỗ lực tận dụng thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đề ra và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực, tạo nền tảng, động lực mới cho sự phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn tới.

A. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

I. KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ QUỐC PHÒNG, AN NINH

1. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá và chuyển dịch đúng hướng. Tốc độ tăng GRDP (giá so sánh 2010) bình quân giai đoạn 2016-2020 ước đạt 6,64%/năm, cao hơn giai đoạn trước (5,71%/năm). Quy mô kinh tế tăng nhanh, đến năm 2020 ước đạt trên 33.500 tỷ đồng, gấp 1,6 lần so với năm 2015. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 21,13% (giảm 4,48%); tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 26,88% (tăng 1,43%); tỷ trọng khu vực dịch vụ chiếm 47,21% (tăng 3,09%)[2]. GRDP bình quân đầu người đạt trên 40 triệu đồng, gấp 1,5 lần so với năm 2015.

Cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới đạt kết quả quan trọng, tạo động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Tỉnh tập trung nguồn lực, tích hợp chính sách của Trung ương để ban hành bộ cơ chế, chính sách đặc thù của tỉnh, phát huy tiềm năng, lợi thế, phát triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn, góp phần bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, thúc đẩy sản xuất hàng hóa, giảm nghèo bền vững ở vùng cao và nâng cao giá trị các sản phẩm chủ lực gắn với xây dựng nông thôn mới ở vùng thấp. Giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp đạt 4,5%/năm, cao hơn bình quân chung cả nước (3%/năm); cơ cấu nội ngành chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng lâm nghiệp, thủy sản; giá trị sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản bình quân tăng khá, nhiều diện tích canh tác cho thu nhập khá cao[3]. Đã hình thành rõ nét các vùng sản xuất tập trung chuyên canh, thâm canh cao sản có quy mô lớn với 10 sản phẩm nông, lâm nghiệp chủ lực, gồm: Vùng quế gần 78.000 ha, măng tre Bát Độ trên 6.600 ha, Sơn tra gần 10.000 ha, lúa đặc sản chất lượng cao 3.000 ha, ngô 15.000 ha, cây ăn quả gần 10.000 ha, Chè 8.000 ha (chè shan trên 1.700 ha, chè giống tiến bộ kỹ thuật trên 3.500 ha), dâu tằm gần 1.000 ha, nguyên liệu gỗ rừng trồng sản xuất trên 220.000 ha, đàn trâu, bò gần 130.000 con, vùng nuôi thủy sản trên 2.600 ha và trên 2.000 lồng cá; phát triển, xây dựng nhãn hiệu hàng hóa cho 10 sản phẩm đặc sản, hữu cơ theo tiêu chuẩn OCOP[4]. Thực hiện tốt công tác bảo vệ và phát triển rừng, hằng năm trồng trên 15.000 ha rừng các loại, nâng tỷ lệ che phủ rừng từ 62% năm 2015, lên 63% năm 2020, xếp thứ tư cả nước.  

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt kết quả nổi bật, toàn diện, trở thành điểm sáng trong các tỉnh vùng Tây Bắc; với nhiều cách làm sáng tạo, hiệu quả, đã tạo thành phong trào thi đua sâu rộng, phát huy trách nhiệm cả hệ thống chính trị, huy động mọi nguồn lực xã hội  và vai trò chủ thể, trực tiếp của nhân dân[5]; thay đổi nhận thức của người dân về xây dựng nông thôn mới là của dân, do dân, vì dân và dân hưởng thụ; đổi mới phương thức tổ chức sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn theo hướng liên kết, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ; tập trung nguồn lực, nhất là xã hội hóa để đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn mới; từ đó, diện mạo nông thôn đã thực sự khởi sắc, đời sống của người dân không ngừng được nâng lên, bản sắc văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc được phát huy. Sau 05 năm toàn tỉnh có thêm 70 xã đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số xã nông thôn mới lên 76 xã, chiếm trên 50% số xã của tỉnh, gấp hơn 3 lần mục tiêu Nghị quyết[6]; thành phố Yên Bái hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, huyện Trấn Yên trở thành huyện miền núi đầu tiên của khu vực Tây Bắc[7] đạt chuẩn nông thôn mới; thu nhập bình quân của người dân nông thôn đạt 32 triệu đồng/năm, gấp 2 lần so với năm 2015.

Công nghiệp có bước phát triển khá, hình thành được một số sản phẩm chủ lực, lợi thế. Ngành công nghiệp được cơ cấu lại theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo, giảm tỷ trọng công nghiệp khai khoáng[8]. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2020 (giá so sánh 2010) ước đạt 13.000 tỷ đồng, gấp 1,8 lần năm 2015, đạt mục tiêu Nghị quyết; chỉ số sản xuất công nghiệp bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 8,6%, cao hơn giai đoạn trước. Tiếp tục hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, nâng tỷ lệ lấp đầy một số khu, cụm công nghiệp và thành lập thêm 02 cụm công nghiệp Bảo Hưng và Minh Quân theo cơ chế doanh nghiệp đầu tư hạ tầng. Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp công nghiệp hiện có đồng thời thu hút được một số tập đoàn, doanh nghiệp chiến lược (tập đoàn Bảo Lai, tập đoàn An Phát, các công ty may của Hàn Quốc, Tập đoàn NipponZoki Nhật Bản...) đầu tư phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực, có giá trị bền vững trên thị trường trong nước và xuất khẩu (đá vật liệu xây dựng cao cấp, hạt nhựa, sản phẩm may mặc, nông, lâm sản chế biến...). Quan tâm phát triển và hỗ trợ đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất cho các hợp tác xã, tổ hợp tác, làng nghề tiểu thủ công nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp, góp phần thúc đẩy tăng trưởng ngành công nghiệp và đổi mới phương thức tổ chức sản xuất ở nông thôn.

Thương mại, dịch vụ phát triển nhanh và khá đa dạng. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2020 ước đạt 20.500 tỷ đồng, gấp gần 2 lần năm 2015, vượt 10% mục tiêu Nghị quyết; tổng vốn đăng ký đầu tư lĩnh vực thương mại, dịch vụ gần 18.000 tỷ đồng, gấp hơn 4 lần giai đoạn 2011-2015; tốc độ tăng trưởng bình quân 6,07%/năm, cao hơn giai đoạn trước 1,06%. Mạng lưới kinh doanh thương mại và dịch vụ trên địa bàn không ngừng được mở rộng đa dạng với nhiều tập đoàn, tổng công ty bán lẻ, ngân hàng, bảo hiểm lớn, có thương hiệu[9]; hình thành một số trung tâm thương mại, siêu thị, chuỗi cửa hàng tại thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ, các cửa hàng tiện ích, kinh doanh tổng hợp, tự chọn theo hướng hiện đại tại trung tâm các huyện đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Thị trường xuất khẩu sản phẩm hàng hóa không ngừng được mở rộng đến gần 90 quốc gia và vùng lãnh thổ với giá trị năm 2020 ước đạt 210 triệu USD, gấp 3 lần năm 2015, vượt 5% mục tiêu Nghị quyết.

Dịch vụ du lịch có nhiều khởi sắc, hình thành khá rõ nét 04 vùng du lịch trọng điểm: Vùng du lịch hồ Thác Bà và dọc sông Chảy; vùng du lịch thành phố Yên Bái và Nam Trấn Yên; vùng du lịch Bắc Trấn Yên - Văn Yên; đặc biệt vùng du lịch miền Tây đã có những sản phẩm du lịch nổi trội, đặc sắc; hệ thống cơ sở hạ tầng, lưu trú từng bước phát triển, một số sự kiện, điểm đến đã có chỗ đứng trên bản đồ du lịch trong nước và quốc tế với nhiều sản phẩm du lịch hấp dẫn, thu hút du khách (Tuần văn hóa du lịch Mường Lò và khám phá danh thắng ruộng bậc thang Mù Cang Chải; Lễ hội Đền Đông Cuông, du lịch Hồ Thác Bà, du lịch Suối Giàng, khu nghỉ dưỡng Le Champ Tú Lệ, suối nước nóng Trạm Tấu, các sản phẩm du lịch cộng đồng, home stay...). Năm 2019 lượng khách du lịch trong và ngoài nước đến với tỉnh đạt 750.000 lượt người, bình quân tăng 20%/năm, gấp gần 5 lần giai đoạn trước; doanh thu từ dịch vụ du lịch năm 2019 đạt 480 tỷ đồng, gấp 1,7 lần năm 2015.

Tài chính, ngân hàng tiếp tục tăng trưởng khá, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2020 ước đạt trên 3.600 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần năm 2015, vượt 20% mục tiêu Nghị quyết. Cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước, tăng chi đầu tư phát triển gắn với đẩy nhanh tiến độ thực hiện tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp công và tinh gọn tổ chức, bộ máy, tinh giản biên chế[10]. Đổi mới phân bổ dự toán chi thường xuyên, chuyển từ ngân sách cấp sang khoán chi đặt hàng, đấu thầu, giao nhiệm vụ, tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bảo đảm minh bạch tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách. Số lượng, quy mô và thị trường hoạt động của các chi nhánh ngân hàng, quỹ tín dụng không ngừng được mở rộng[11]; năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh được nâng lên; các chính sách tín dụng phục vụ phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội được thực hiện tốt.

Nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng các nguồn lực đầu tư; phát triển mạnh các thành phần kinh tế. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2016-2020 ước đạt 62.500 tỷ đồng, gấp 1,5 lần giai đoạn trước, vượt 3,3% mục tiêu Nghị quyết; trong đó tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước giảm mạnh, vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh[12]; đầu tư công được cơ cấu lại theo hướng trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, bền vững, không để nợ đọng. Giai đoạn 2016-2020 đã thực hiện 78 dự án ODA và NGO với tổng mức đầu tư gần 2.100 tỷ đồng để phát triển hạ tầng giao thông, đô thị, y tế, nông nghiệp; thu hút được 11 dự án FDI, nâng số dự án FDI toàn tỉnh lên 27 dự án với tổng vốn đầu tư gần 10.000 tỷ đồng.

Thu hút đầu tư đạt kết quả tích cực, nhiều tập đoàn, doanh nghiệp hàng đầu trong nước đã lựa chọn Yên Bái là điểm đầu tư quan trọng, như: Vingroup, TH, SunGroup, Eurowindow, Hoa Sen, APEC. Số lượng doanh nghiệp, hợp tác xã tăng nhanh, hoạt động khá hiệu quả; toàn tỉnh hiện có trên 2.500 doanh nghiệp (gấp gần 2 lần so với năm 2015), gần 500 hợp tác xã, 4.100 tổ hợp tác và gần 22.000 hộ kinh doanh; khu vực kinh tế tư nhân đóng góp bình quân trên 60% thu cân đối ngân sách của tỉnh. Tích cực thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn và chuyển đổi mô hình hoạt động của một số doanh nghiệp nhà nước theo quy định.

2. Văn hóa - xã hội, khoa học, công nghệ có nhiều tiến bộ

Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo được nâng lên. Mạng lưới trường, lớp học được sắp xếp tinh gọn, hợp lý; giảm được 130 trường, 473 điểm trường; chất lượng giáo dục dân tộc có nhiều tiến bộ mới, gần 40% học sinh dân tộc thiểu số toàn tỉnh được hưởng chính sách nội trú, bán trú. Cơ sở vật chất giáo dục được đầu tư đồng bộ với 55,3% số trường đạt chuẩn quốc gia, gần 78% số phòng học đạt tiêu chuẩn kiên cố, đáp ứng yêu cầu dạy và học. Chất lượng giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn được nâng lên rõ rệt; số lượng học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia năm sau cao hơn năm trước; tỷ lệ đỗ tốt nghiệp THPT bình quân hằng năm đạt trên 96%; tỷ lệ học sinh được phân luồng học nghề hằng năm trên 40%; duy trì 100% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập tiểu học đạt chuẩn mức độ 1 và phổ cập THCS; đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên được sắp xếp hợp lý, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học; tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trở lên là 98,9%. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, tập trung vào giáo dục mầm non và đào tạo nghề.

Chú trọng chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ. Nhất  là trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là các dịch vụ công, ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp. Giai đoạn 2016-2020, đã triển khai thực hiện 250 đề tài, dự án khoa học công nghệ, mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trên các lĩnh vực, trong đó một số đề tài, dự án lĩnh vực nông, lâm nghiệp, y tế, an ninh... có tính khả thi, được áp dụng rộng rãi và mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao; thực hiện tốt chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ, thiết bị, chuyển giao công nghệ và xác lập quyền sở hữu công nghiệp, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp có hoạt động đổi mới công nghệ, thiết bị; xây dựng chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể, xác lập quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ cho trên 30 sản phẩm nông, lâm nghiệp, tập trung vào các sản phẩm chủ lực, đặc sản của tỉnh; 100% cơ quan hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và ủy ban nhân dân cấp xã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2015.

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Tập trung đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động, đẩy mạnh tự chủ tài chính các cơ sở y tế trên địa bàn[13]. Đầu tư khá đồng bộ cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực cho hệ thống y tế công lập, gắn với khuyến khích phát triển được 250 cơ sở y tế ngoài công lập, tạo sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng, bình đẳng, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân; toàn tỉnh có 75% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia y tế, tăng gần 42% so với năm 2015; đạt 32,9 giường bệnh/1 vạn dân và 10,1 bác sỹ/1 vạn dân, cao hơn bình quân chung cả nước; chất lượng khám, chữa bệnh và sự hài lòng của nhân dân ngày càng được nâng lên, nhiều kỹ thuật vượt tuyến, kỹ thuật khó đã được chuyển giao và thực hiện thành công[14]. Y tế dự phòng được đẩy mạnh, công tác giám sát và phòng chống dịch bệnh được triển khai nghiêm túc; đặc biệt, đã chủ động, kịp thời chỉ đạo sát sao, quyết liệt, hiệu quả công tác phòng, chống đại dịch Covid-19, không để xâm nhập, lây lan vào địa bàn, bảo đảm an toàn sức khỏe và tính mạng nhân dân. Diện bao phủ bảo hiểm y tế được mở rộng, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 96,5%, vượt 8% kế hoạch; kiểm soát tốt tỷ lệ gia tăng và nâng cao chất lượng dân số.

Chất lượng các hoạt động văn hóa, thể thao, thông tin truyền thông không ngừng được nâng lên. Bảo tồn, phát huy và đẩy mạnh quảng bá các giá trị lịch sử, bản sắc văn hoá độc đáo của các dân tộc gắn với xây dựng hình ảnh con người Yên Bái "thân thiện, đoàn kết, sáng tạo, hội nhập"; số lượng di tích được xếp hạng tăng cao[15]; danh thắng ruộng bậc thang Mù Cang Chải được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; đề nghị UNESCO ghi danh "Nghệ thuật Xòe Thái" là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" ngày càng đi vào thực chất, tỷ lệ làng, bản, tổ dân phố văn hóa năm 2020 ước đạt 66%, tăng 18% so với năm 2015, tỷ lệ hộ gia đình văn hóa đạt 80%, tăng 8% so với năm 2015, vượt mục tiêu Nghị quyết. Thể thao phong trào và thể thao thành tích cao được đẩy mạnh, số người luyện tập thể thao thường xuyên khoảng 40% dân số, mỗi năm giành 45 - 50 huy chương các loại tại các giải thi đấu thể thao trong nước và quốc tế.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác thông tin, truyền thông, báo chí, phục vụ hiệu quả nhiệm vụ chính trị của tỉnh và nhu cầu của nhân dân; năm 2020, tỷ lệ hộ dân được nghe, xem phát thanh truyền hình toàn tỉnh ước đạt 99%; có 92 thuê bao điện thoại/100 dân; 33 thuê bao internet/100 dân.

Quan tâm hỗ trợ tạo việc làm, chăm lo an sinh, phúc lợi xã hội, giảm nghèo nhanh, bền vững. Trong 05 năm đã tạo việc làm mới cho gần 94.500 lao động, vượt 7,8% kế hoạch. Kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp ở mức 1,2% (thất nghiệp thời vụ 2 - 3%). Hầu hết lao động được tạo việc làm có thu nhập khá ổn định, phù hợp với năng lực, trình độ đào tạo; các điều kiện làm việc và chế độ, chính sách của người lao động cơ bản được bảo đảm; khoảng 17% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Quan tâm chăm lo đầy đủ, kịp thời các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, góp phần bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, nhất là đối với người có công, các đối tượng bảo trợ xã hội, các gia đình bị thiệt hại do thiên tai. Hoàn thành hỗ trợ xây dựng gần 3.600 nhà cho 100% người có công và hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về nhà ở; thực hiện chính sách bảo trợ và trợ giúp xã hội cho trên 24.000 người; cơ bản bảo đảm cuộc sống đối với các đối tượng thiệt hại bởi thiên tai, rủi ro bất khả kháng; 100% đối tượng bảo trợ xã hội được cấp thẻ bảo hiểm y tế.

Tập trung triển khai quyết liệt, hiệu quả công tác giảm nghèo; hằng năm xây dựng kế hoạch cụ thể, sát thực tới từng hộ nghèo; đồng thời, phân công nhiệm vụ cho từng tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị, huy động sự vào cuộc đồng bộ của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững. Tỷ lệ giảm hộ nghèo bình quân giai đoạn 2016-2020 khoảng 4,93%/năm (cao hơn 0,93% so với giai đoạn trước), góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh từ 32,21% năm 2016, xuống còn 7,56% năm 2020, hoàn thành trước 01 năm so với kế hoạch giảm nghèo giai đoạn 2016-2020.

Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, quyền được sinh hoạt tôn giáo theo pháp luật. Các tôn giáo cơ bản hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích; chức sắc, chức việc và tín đồ tôn giáo chấp hành tốt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động xã hội, từ thiện, xây dựng khối đại đoàn kết trong cộng đồng dân cư; hằng năm, có trên 75% hộ gia đình tín đồ đạt gia đình văn hóa, trên 60% họ giáo đạt giáo họ tiên tiến.

3. Tăng cường quản lý và bảo vệ tài nguyên, môi trường; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tập trung hoàn thiện, ban hành đồng bộ các quy hoạch, kế hoạch, quy định quản lý hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường[16]. Khai thác tốt nguồn lực đất đai, tài nguyên phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; triển khai kịp thời việc lập, cập nhật, chỉnh lý hồ sơ địa chính và cơ bản hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu trên toàn tỉnh; công tác cấp phép, quản lý hoạt động khoáng sản được thực hiện nghiêm theo quy định; quan tâm bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển hài hòa, bền vững; tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị đạt 90%; cơ bản hoàn thành việc xử lý 12 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và 05 khu vực bị ô nhiễm do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu. Tích cực, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai theo kế hoạch hành động giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; ưu tiên nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng thủy lợi phòng, chống thiên tai, bão lũ; lồng ghép, bố trí trên 700 tỷ đồng từ các nguồn vốn để thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại dân cư, bảo đảm cuộc sống an toàn cho nhân dân vùng có nguy cơ cao bị ảnh hưởng bởi thiên tai.

4. Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt kết quả tích cực. Kiên trì vận động đồng bào thay đổi tập quán canh tác, ứng dụng khoa học kỹ thuật, mở rộng diện tích ruộng bậc thang, cây sơn tra, cây dược liệu phát triển chăn nuôi đại gia súc, gia cầm, các sản phẩm có lợi thế, giá trị cao; sắp xếp lại, đưa các điểm trường lẻ về điểm trường chính, tạo điều kiện cho con em đồng bào dân tộc vùng cao có điều kiện tốt hơn trong học tập văn hóa, rèn luyện kỹ năng sống. Ưu tiên bố trí hơn 6.000 tỷ đồng nguồn lực ngân sách đầu tư cho vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tập trung hỗ trợ sản xuất nông, lâm nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, đầu tư cơ sở vật chất giáo dục, trạm y tế, nước hợp vệ sinh[17] Do vậy, kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của tỉnh tiếp tục có bước đổi thay tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được được nâng lên, khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước; phong tục, tập quán lạc hậu dần được xóa bỏ, bản sắc văn hóa được phát huy, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Toàn tỉnh có 09 xã và 150 thôn, bản đặc biệt khó khăn đạt tiêu chí nông thôn mới; tỷ lệ hộ nghèo tại hai huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải bình quân giảm trên 7,8%/năm, vượt mục tiêu Nghị quyết; năm 2020 tỷ lệ hộ nghèo tại hai huyện còn dưới 37%.

5. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện ngày càng vững chắc, xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện; từng bước đầu tư xây dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương và các công trình quốc phòng, công trình có tính lưỡng dụng cao trong khu vực phòng thủ. Chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang không ngừng được nâng lên. Làm tốt công tác luyện tập và diễn tập khu vực phòng thủ, phòng chống cháy rừng; chủ động, trách nhiệm trong giúp đỡ nhân dân phòng chống lụt bão, dịch bệnh, tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định cuộc sống.

An ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được bảo đảm; chủ động tấn công, trấn áp có hiệu quả với các loại tội phạm; tỷ lệ điều tra, khám phá án hình sự đạt trên 91%, trong đó án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đạt trên 98%, tăng 6,5% so với giai đoạn trước; không có tội phạm có tổ chức hoạt động theo kiểu "xã hội đen"; xử lý kịp thời, nghiêm minh một số đối tượng tiêu cực, bất mãn, cơ hội chính trị hoạt động lợi dụng mạng xã hội để kích động, chống phá; tai nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí. Đưa công an chính quy về 100% xã, thị trấn đảm nhiệm các chức danh công an xã, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo đảm an ninh trật tự ở cơ sở và cộng đồng dân cư.

            6. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế và liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng

Chủ động kết nối, mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác với nhiều địa phương ngoài nước. Tiếp tục phát huy hiệu quả hợp tác hữu nghị truyền thống với một số địa phương của Lào, Pháp, Ý và một số tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Tăng cường quan hệ với Đại sứ quán và các tổ chức, tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ... ; đẩy mạnh khảo sát thị trường, xúc tiến thương mại tại một số nước: Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, khu vực Trung Đông.... Thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị, giao lưu kinh tế, văn hóa, đào tạo nguồn nhân lực với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc; được Chính phủ chấp thuận đưa Yên Bái trở thành đối tác hợp tác của tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Hình ảnh, tiềm năng, lợi thế của tỉnh được giới thiệu, quảng bá ngày càng rộng rãi trong nước và quốc tế.

Tích cực liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng theo tinh thần Nghị quyết số 37-NQ/TW, Kết luận số 26-KL/TW của Bộ Chính trị. Định vị rõ vị trí là một trong những trung tâm vùng Trung du và Miền núi phía Bắc, cửa ngõ vùng Tây Bắc để quy hoạch, phát triển hệ thống mạng lưới giao thông kết nối vùng; nhận diện những đặc điểm tương đồng và những tiềm năng, lợi thế nổi trội, riêng có về điều kiện tự nhiên, sinh thái, văn hóa để liên kết hợp tác phát triển với các tỉnh trong vùng. Xây dựng quy chế phối hợp các tỉnh về bảo đảm quốc phòng, an ninh; công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản khu vực giáp ranh. Chủ trì phối hợp với các địa phương trong vùng tổ chức các hoạt động hợp tác phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư hạ tầng giao thông, bước đầu tạo ra hiệu quả tích cực; chủ động phối hợp tham gia Chương trình hợp tác phát triển du lịch 08 tỉnh vùng Tây Bắc mở rộng.

II. THỰC HIỆN 03 ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC

1. Ban hành, thực hiện hiệu quả cơ chế, chính sách gắn với cải cách hành chính, tạo hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi cho phát triển. Hoàn thành rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp tỉnh, cấp huyện, các quy hoạch ngành, lĩnh vực then chốt của tỉnh và ban hành 48 chính sách đồng bộ, tập trung phát huy tiềm năng, lợi thế, khơi thông các nguồn lực, điểm nghẽn, tháo gỡ những nút thắt, thúc đẩy hiệu quả quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, hoàn thiện kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới, chăm lo an sinh, phúc lợi xã hội, giảm nghèo nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, đổi mới mạnh mẽ phương tổ chức thực hiện chính sách theo hướng công khai, minh bạch, kịp thời, gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính và chế độ công vụ, công chức; rà soát, đơn giản hóa, rút ngắn khoảng 50% thời gian thực hiện các thủ tục hành chính; triển khai xây dựng chính quyền điện tử; sử dụng phầm mềm một cửa điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4 liên thông từ tỉnh đến xã; thành lập, đưa Trung tâm phục vụ hành chính công tỉnh và bộ phận phục vụ hành chính công cấp huyện, cấp xã đi vào hoạt động liên thông, giải quyết 100% thủ tục hành chính với tỷ lệ hài lòng của người dân, doanh nghiệp trên 99%; từ đó chất lượng môi trường đầu tư, kinh doanh của tỉnh không ngừng được cải thiện, xếp hạng của tỉnh về cải cách hành chính, năng lực cạnh tranh hằng năm đều tăng từ 06 - 08 bậc.

2. Kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông được quan tâm đầu tư đồng bộ. Ban hành các nghị quyết, đề án tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực, tạo bước đột phá quan trọng về phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội của tỉnh. Huy động trên 50.000 tỷ đồng đầu tư kết cấu hạ tầng[18], tăng 45% so với nhiệm kỳ trước, tập trung cho các dự án trọng điểm, quan trọng, có sức lan tỏa, tác động lớn tới phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và các công trình khắc phục, giảm thiu thiệt hại do thiên tai. Trong nhiệm kỳ đã hoàn thành và đưa vào khai thác gần 1.200 công trình hạ tầng đô thị, nông thôn mới, thủy lợi, trường học, y tế; hoàn thành 02 cầu bắc qua sông Hồng, gần 300 km đường tỉnh lộ, quốc lộ, đường đô thị, bê tông hóa gần 1.800 km đường giao thông nông thôn, 85% số thôn, bản có đường giao thông được bê tông hóa; tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt 21%; hoàn thành 11/18 dự án trọng điểm[19] có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc, nhất là các công trình hạ tầng giao thông huyết mạch, đẩy nhanh liên kết các vùng, miền trong tỉnh cũng như kết nối Yên Bái với các tỉnh trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc, vùng Đồng bằng sông Hồng và thủ đô Hà Nội, góp phần thúc đy phát trin kinh tế - xã hội tạo ra diện mạo mới, khang trang từ thành thị đến nông thôn. Đầu tư mở rộng mạng lưới truyền tải điện đến gần 92% số thôn, bản trong toàn tnh với trên 95% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia. Hạ tầng thông tin, viễn thông được đầu tư đồng bộ, 100% các xã có trạm BTS cung cấp dịch vụ 3G, 4G; 100% các xã và 80% thôn, bản có cáp quang băng thông rộng cung cấp dịch vụ internet; 100% cơ quan, đơn vị có mạng nội bộ, kết nối internet tốc độ cao.

3. Quan tâm phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Ban hành nghị quyết chuyên đề của Hội đồng nhân dân tỉnh với nhiều chính sách ưu tiên phát triển nguồn nhân lực. Quy mô và chất lượng nhân lực của tỉnh được nâng lên, tổng số lao động năm 2020 khoảng 53,2 vạn người, tăng 4,6% so với năm 2015; trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 63%, tăng 18% so với năm 2015, vượt 3% mục tiêu Nghị quyết; trên 98.000 lao động được đào tạo nghề với trên 80% có việc làm, thu nhập ổn định sau đào tạo. Hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp được đầu tư nâng cấp và hoạt động khá hiệu quả, nhất là Trường cao đẳng nghề Yên Bái được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đầu tư 01 trong số 40 trường nghề chất lượng cao của cả nước. Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, tỷ lệ lao động khu vực nông nghiệp giảm từ 69,4% năm 2015 xuống còn 61,9% năm 2020.

Tập trung cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị; thực hiện đồng bộ, hiệu quả việc sắp xếp, tinh giản biên chế gắn với tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng bảo đảm tiêu chuẩn chính trị, chuyên môn và yêu cầu vị trí việc làm, góp phần nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức. Ban hành nhiều nghị quyết, đề án thu hút, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, đặc biệt là Đề án số 11-ĐA/TU về xây dựng và tạo nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý đến năm 2030, định hướng đến năm 2035, qua đó lựa chọn, đào tạo bài bản 150 cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, tạo nguồn cán bộ kế cận dồi dào, chất lượng cho các nhiệm kỳ tiếp theo; bước đầu thu hút được một số nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức khối hành chính, sự nghiệp có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên chiếm 73,6%, trong đó tiến sỹ, thạc sỹ chiếm khoảng 6%; tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã có trình độ chuyên môn đại học, cao đẳng là 51,5%, vượt mục tiêu đề ra.

 

III. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

1. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đặc biệt quan tâm công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương Trung ương 4 khóa XI, XII và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kịp thời xây dựng, ban hành chương trình hành động và các văn bản triển khai thực hiện đồng bộ, trọng tâm, trọng điểm từ tỉnh đến cơ sở gắn với nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, địa phương, từng cán bộ, đảng viên; đồng thời, tổ chức học tập, quán triệt trong hệ thống chính trị và tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân; duy trì thường xuyên việc đưa Nghị quyết Trung ương 4, Chỉ thị số 05-CT/TW vào nội dung sinh hoạt định kỳ, sinh hoạt chuyên đề của chi bộ, cơ quan, đơn vị; hằng năm đưa vào nội dung kiểm điểm bắt buộc để đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên; đặc biệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc nhận xét, đánh giá, xếp loại tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo các cấp diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý. Sau kiểm điểm, yêu cầu xây dựng và thực hiện kế hoạch khắc phục khuyết điểm, hạn chế gắn với giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm, khó khăn, vướng mắc ở địa phương, cơ sở; qua đó, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên.

Triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Chỉ đạo xây dựng, thực hiện quy định về chuẩn mực đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp trong các cơ quan, đơn vị; quy định người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên thực hiện cam kết tu dưỡng rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống. Tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng nhiều hình thức gắn liền với nhiệm vụ chính trị và chủ đề trọng tâm hằng năm; chú trọng tuyên truyền, xây dựng, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến học tập và làm theo Bác, qua đó đã có gần 500 tập thể, trên 2.000 cá nhân tiêu biểu, điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, địa bàn, tạo sức lan tỏa trong xã hội, góp phần đẩy mạnh các phong trào yêu nước, tác động tích cực, hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh.

2. Công tác chính trị, tư tưởng có nhiều tiến bộ, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội. Đổi mới mạnh mẽ việc học tập, quán triệt, sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng một cách thiết thực, phù hợp, tập trung nâng cao hiệu quả khâu tổ chức thực hiện, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, dự nguồn lãnh đạo các cấp. Tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chỉ đạo nắm chắc tình hình, kịp thời định hướng thông tin, ổn định tư tưởng, dư luận xã hội. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị, nâng cao bản lĩnh, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp; thường xuyên tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa tốt đẹp của Đảng bộ và quê hương, con người Yên Bái; tích cực giới thiệu gương người tốt, việc tốt, khơi dậy truyền thống đoàn kết, lòng tự tôn dân tộc, khích lệ cán bộ, đảng viên và nhân dân hăng hái tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, chung sức, đồng lòng thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị đề ra.

3. Công tác tổ chức xây dựng Đảng đạt nhiều kết quả nổi bật. Chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên; tập trung kiện toàn, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị trong tỉnh theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII. Với cách làm sáng tạo, đồng bộ, thống nhất, quyết tâm, quyết liệt, hiệu quả, đồng thuận cao, cơ bản tỉnh đã hoàn thành sắp xếp các đơn vị sự nghiệp, cơ quan, đơn vị hành chính trong hệ thống chính trị cấp tỉnh, cấp huyện, cấp cơ sở. Đến nay, đã giảm được 405 đầu mối cơ quan, đơn vị, bằng 25,4% so với năm 2015, giảm 07 đơn vị hành chính cấp xã và 985 (bằng 42%) thôn, bản, tổ dân phố, giảm trên 1.200 cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, gần 14.000 cán bộ không chuyên trách cấp xã và thôn, bản, tổ dân phố; giảm 12% biên chế công chức, 13% biên chế viên chức so với năm 2015, vượt chỉ tiêu Trung ương giao; điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính thị xã Nghĩa Lộ[20]. Triển khai xây dựng các mô hình mới về tổ chức, bộ máy cấp tỉnh, cấp huyện chặt chẽ, hiệu quả, làm cơ sở để Trung ương nghiên cứu và triển khai trong cả nước. Những bất cập, chồng chéo trong bộ máy cơ bản được khắc phục. Các cơ quan, đơn vị sau sắp xếp xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, chất lượng hoạt động nâng lên, đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Công tác cán bộ có nhiều đổi mới, trọng tâm là nâng cao chất lượng, bảo đảm số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ; đồng thời quan tâm sắp xếp, luân chuyển, điều động, tăng cường, biệt phái, chủ động chuẩn bị nguồn cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp đủ tiêu chuẩn trước mắt và lâu dài; trong đó, Đề án số 11-ĐA/TU của Tỉnh ủy được xác định là nội dung có ý nghĩa chiến lược trong công tác cán bộ của tỉnh[21]. Tập trung làm tốt công tác quy hoạch cán bộ các cấp, bảo đảm chất lượng, liên thông, đồng bộ, khả thi. Đổi mới hình thức, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp với vị trí việc làm và chức danh quy hoạch. Ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ các quy định về tiêu chuẩn chức danh, bổ sung yêu cầu năng lực thực tiễn vào điều kiện, tiêu chuẩn giới thiệu, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo. Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đánh giá, bổ nhiệm cán bộ, lấy sản phẩm công việc, uy tín trước tổ chức và nhân dân là thước đo cán bộ. Từ đó, đã tạo chuyển biến lớn trong công tác cán bộ của tỉnh, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp có năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.

Quan tâm sắp xếp tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng. Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng đồng bộ với sắp xếp bộ máy hành chính và gắn với nhiệm vụ chính trị được giao; cơ bản thực hiện 100% bí thư cấp ủy là người đứng đầu cơ quan, đơn vị; duy trì 100% thôn, bản, tổ dân phố có chi bộ và không có chi bộ ghép. Quy định bí thư, phó bí thư, ủy viên ban thường vụ, cấp ủy viên các cấp định kỳ dự sinh hoạt với chi bộ khu dân cư và chi bộ nơi công tác; quy định về tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ; về trách nhiệm của đảng viên trong chấp hành chế độ sinh hoạt đảng và thực hiện nhiệm vụ được chi bộ phân công. Công tác kết nạp, quản lý, rèn luyện đảng viên được tăng cường gắn với sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên; đẩy mạnh phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong doanh nghiệp[22]; quan tâm phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số, đảng viên trẻ; số lượng đảng viên mới kết nạp hằng năm trên 2.100 người, vượt mục tiêu Nghị quyết (trong đó, đảng viên là người dân tộc thiểu số chiếm 38%, đảng viên trẻ chiếm 70%). Số tổ chức cơ sở đảng được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên bình quân đạt 94,3%/năm; tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ hằng năm bình quân đạt 89,6%, vượt 9,6% mục tiêu Nghị quyết. Thực hiện kịp thời, đúng quy định các chế độ, chính sách đối với cán bộ, nhất là cán bộ dôi dư do sắp xếp tổ chức, bộ máy, tinh giản biên chế. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được thực hiện nghiêm túc, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác cán bộ.

4. Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng được đẩy mạnh, kỷ luật, kỷ cương của Đảng được tăng cường. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát theo hướng giám sát rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, không chồng chéo với thanh tra nhà nước và giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Hợp nhất cơ quan ủy ban kiểm tra với thanh tra cấp huyện thành cơ quan kiểm tra - thanh tra cấp huyện. Quy định cụ thể về quy trình, thủ tục, phương pháp công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh; lựa chọn nội dung kiểm tra, giám sát phù hợp với nhiệm vụ trọng tâm, các lĩnh vực trọng yếu, nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực; đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc xây dựng, thực hiện quy chế làm việc, công tác cán bộ, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, kê khai tài sản, công tác phòng, chống tham nhũng...; tập trung phát hiện, kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết kịp thời, thấu đáo các khiếu nại, tố cáo; thi hành kỷ luật nghiêm minh, đúng quy định của Đảng. So với nhiệm kỳ trước, số tổ chức đảng được kiểm tra, giám sát tăng 1,6 lần, số đảng viên được kiểm tra tăng 1,7 lần; thi hành kỷ luật 13 tổ chức đảng, 962 đảng viên (giảm 09 tổ chức đảng và tăng 203 đảng viên so với nhiệm kỳ 2010-2015). Công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần quan trọng vào việc giáo dục, uốn nắn, ngăn ngừa vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

5. Công tác dân vận của hệ thống chính trị và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội đạt kết quả tích cực. Phương pháp, nội dung công tác dân vận có nhiều đổi mới, hiệu quả được nâng lên; bám sát nhiệm vụ chính trị để giải quyết các vấn đề liên quan trực tiếp đến nhân dân, nhất là trong công tác giải phóng mặt bằng, huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới, sắp xếp thôn, bản, tổ dân phố... Xây dựng và nhân rộng trên 5.500 mô hình, điển hình "Dân vận khéo"; phát huy tốt vai trò của đội ngũ bí thư chi bộ, trưởng thôn, bản, tổ dân phố, trưởng ban công tác mặt trận, người có uy tín trong cộng đồng, tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua, cuộc vận động, tiêu biểu như: "Toàn dân tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh", "Toàn dân tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"…. Công tác dân vận chính quyền đạt kết quả tích cực thông qua việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phục vụ tốt hơn nhu cầu của tổ chức và cá nhân. Ban hành, thực hiện đồng bộ kế hoạch "Ngày thứ 7 cùng dân", chương trình "Cà phê doanh nhân" nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp trong đồng hành, gắn kết chặt chẽ với nhân dân và doanh nghiệp. Tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp tích cực tập hợp, tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, cuộc vận động từ thiện, nhân đạo; trực tiếp tham gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh; vận động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội hóa; chủ động hơn trong giám sát, phản biện xã hội và tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Tỷ lệ quần chúng tham gia vào hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội hằng năm đạt trên 80%, vượt mục tiêu Nghị quyết đề ra.

6. Công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí được quan tâm thực hiện nghiêm túc. Quán triệt và triển khai kịp thời, tích cực các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng; đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức của cán bộ, đảng viên về phòng ngừa tham nhũng; kiểm tra, giám sát và chỉ đạo khắc phục những bất cập, tồn tại trong công tác thanh tra vụ việc, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế. Rà soát, ban hành đồng bộ các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn, quy chế chi tiêu nội bộ của các cơ quan, đơn vị; thực hiện công khai, minh bạch cơ chế, chính sách; tăng cường quản lý kinh tế, ngân sách nhà nước, tài sản công và các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng. Triển khai đầy đủ, nghiêm túc các quy định về kê khai tài sản, thu nhập; định kỳ chuyển đổi các vị trí công tác theo quy định.  

Công tác cải cách tư pháp và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp được thực hiện đồng bộ; hiệu quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân được nâng lên. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thực hiện nghiêm theo quy định. Công tác thanh tra được đẩy mạnh với gần 800 cuộc thanh tra hành chính, tập trung vào các lĩnh vực, địa bàn trọng điểm, nhạy cảm, dễ phát sinh vi phạm, tiêu cực, tham nhũng[23]; định kỳ rà soát các cuộc thanh tra kinh tế - xã hội; việc đôn đốc thực hiện kết luận thanh tra, xử lý sau thanh tra có tiến bộ, thu hồi tiền và tài sản sai phạm sau thanh tra đạt tỷ lệ trên 95%.

Công tác tiếp dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện hiệu quả ngay từ cơ sở; tập trung rà soát, giải quyết dứt điểm một số vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài, không để phát sinh phức tạp, tỷ lệ giải quyết đơn thư hằng năm đạt trên 96%. Triển khai nghiêm túc quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp công dân, đối thoại trực tiếp với nhân dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân, góp phần ổn định tình hình, tạo đồng thuận trong xã hội.

7. Phương thức lãnh đạo của Đảng và hoạt động của chính quyền có nhiều đổi mới, hiệu quả nâng lên. Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành và thực hiện nhiều quy định vừa bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cao trong Đảng; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc và chương trình công tác; đề cao vai trò cá nhân người đứng đầu cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo; thường xuyên đổi mới phong cách, lề lối làm việc sâu sát, quyết tâm, quyết liệt, hiệu quả; vừa bảo đảm tính toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, thận trọng, chắc chắn trong giải quyết những vấn đề mới, vấn đề khó; thực hiện cơ chế lãnh đạo giao nhiệm vụ, khoán sản phẩm, cơ bản lượng hóa chỉ tiêu, nhiệm vụ cho từng tổ chức và cá nhân với yêu cầu về tiến độ, thời gian hoàn thành và chất lượng sản phẩm, công việc cần đạt được; đồng thời, phân cấp mạnh, gắn với tăng cường kiểm tra, đôn đốc và thực hiện nghiêm chế độ thông tin, báo cáo và trách nhiệm giải trình, đề cao kỷ luật, kỷ cương trong Đảng; qua đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của tỉnh.

Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ, chương trình công tác theo quy định; tích cực tham gia ý kiến vào các dự án luật, các nghị quyết của Quốc hội và phát huy tốt vai trò giám sát những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ chính trị của địa phương. Hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp có nhiều đổi mới, tham gia hiệu quả vào lãnh đạo, giám sát việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết hội đồng nhân dân; nâng cao chất lượng các kỳ họp và ban hành cơ chế, chính sách, đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Công tác quản lý, điều hành của ủy ban nhân dân các cấp được đổi mới theo hướng dân chủ, minh bạch, quyết liệt, kỷ cương, sâu sát, hiệu quả, đúng quy định của pháp luật, chủ trương, định hướng của cấp ủy và nghị quyết của hội đồng nhân dân. Tích cực đề xuất cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; tập trung cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, huy động, sử dụng hiệu quả nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược; tăng cường quản lý phát triển xã hội tiến bộ, công bằng; bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự xã hội. Đẩy mạnh việc sắp xếp tổ chức, tinh gọn bộ máy gắn với cải cách hành chính và chế độ công vụ, công chức; lề lối làm việc, thái độ phục vụ nhân dân và trách nhiệm trong thực thi công vụ có bước được nâng lên, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức "chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo, liêm chính", nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

B. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM

1. Về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh

Còn 02/21 chỉ tiêu chủ yếu Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ tỉnh là tốc độ tăng trưởng kinh tế và GRDP bình quân đầu người không đạt mục tiêu đề ra; mục tiêu nâng cấp thành phố Yên Bái trở thành đô thị loại II và xây dựng thị xã Nghĩa Lộ đạt tiêu chí đô thị loại III chưa hoàn thành.

Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm, hiệu quả chưa cao; giá trị sản xuất nông nghiệp thấp, một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực, sản xuất hàng hóa chưa gắn kết chặt chẽ với thị trường tiêu thụ; xây dựng nông thôn mới tuy vượt mục tiêu nhưng có mặt chưa bền vững, nhất là tiêu chí môi trường, kinh tế nông thôn vùng cao vẫn còn khó khăn.

Phát triển công nghiệp chưa trở thành đột phá cho phát triển kinh tế, tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao, chế biến sâu hạn chế. Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất chưa nhiều, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp. Hoạt động dịch vụ, thương mại, xuất khẩu phát triển nhanh nhưng giá trị gia tăng chưa cao, quy mô nhỏ. Dịch vụ du lịch còn bất cập, thiếu đồng bộ, chuyên nghiệp, năng lực cạnh tranh chưa cao.

Việc triển khai các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào tỉnh có mặt chưa đáp ứng yêu cầu, một số dự án không thực hiện hoặc chậm tiến độ, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp, du lịch, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, kinh doanh và phát triển kinh tế địa phương. Kinh tế tư nhân phát triển chậm, năng lực cạnh tranh thấp; việc cổ phần hóa và thoái vốn doanh nghiệp nhà nước không bảo đảm kế hoạch.

Chất lượng, hiệu quả lĩnh vực văn hóa - xã hội có mặt còn hạn chế. Phát triển giáo dục, đào tạo, y tế còn bất cập giữa vùng thấp với vùng cao; cơ sở hạ tầng, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục có nơi chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới; công tác y tế, chăm sóc sức khỏe, khám, chữa bệnh cho nhân dân có mặt chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tuyến cơ sở. Quản lý phát triển xã hội chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; chất lượng đời sống văn hóa cơ sở chưa được nâng lên; nếp sống văn hóa, văn minh có mặt hạn chế, nhất là việc cưới, việc tang, vẫn còn tình trạng mê tín, dị đoan, thương mại hóa lễ hội; một số hủ tục lạc hậu của đồng bào dân tộc chưa được xóa bỏ triệt để; chất lượng dân số một số địa phương thấp; tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống ở vùng cao vẫn còn.

Đào tạo nghề, đặc biệt là đào tạo nghề cho lao động nông thôn chưa thực sự hiệu quả; chất lượng việc làm chưa cao, thiếu ổn định, năng suất lao động thấp[24]; chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp chậm. Việc thu hút, phát triển, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu. Giảm nghèo nhanh nhưng có nơi thiếu bền vững. Đời sống của một bộ phận người dân, đặc biệt là các khu vực bị ảnh hưởng của thiên tai, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn.

Thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng có mặt hiệu quả chưa cao; việc nắm tình hình, tham mưu xử lý một số vụ việc phát sinh ở cơ sở chậm. An ninh, trật tự, an toàn xã hội, an ninh mạng, an ninh tôn giáo... còn tiềm ẩn phức tạp, một số vi phạm, tội phạm, xuất cảnh trái phép chưa được kiềm chế vững chắc; hoạt động tôn giáo trái pháp luật vẫn còn diễn ra; bảo đảm an ninh chính trị nội bộ có lúc bị động.

2. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là ở cơ sở có nơi chưa đáp ứng được yêu cầu. Đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt của các loại hình chi bộ nhiều nơi còn hạn chế. Vai trò tiền phong, gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa được phát huy đầy đủ. Khắc phục khuyết điểm, hạn chế sau kiểm điểm hằng năm theo yêu cầu Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị ở một số cấp ủy, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa sát sao, nghiêm túc, quyết liệt; kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chưa toàn diện, hiệu quả, có nơi còn hình thức.

Nội dung, phương thức công tác chính trị, tư tưởng, thông tin, tuyên truyền có mặt chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Việc học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng có nơi hiệu quả thấp. Công tác cán bộ vẫn còn những hạn chế, bất cập, nhất là việc đánh giá cán bộ; trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, uy tín của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý một số cấp ủy, chính quyền, địa phương, cơ sở còn hạn chế, chưa ngang tầm nhiệm vụ. Một số cấp ủy, ủy ban kiểm tra chưa chủ động trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; thiếu quyết liệt, ngại va chạm, chất lượng, hiệu quả kiểm tra, xử lý và tham mưu xử lý vi phạm còn hạn chế. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân về công tác dân vận chưa thực sự đầy đủ, sâu sắc.

Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí có mặt chưa hiệu quả; một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng chưa được thực hiện nghiêm túc, quyết liệt; việc tự phát hiện tham nhũng, tiêu cực tại cơ quan, đơn vị, địa phương còn yếu. Công tác tiếp công dân có nơi chưa được quan tâm đúng mức; một số vụ việc khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết kịp thời, triệt để.

Hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát của hội đồng nhân dân các cấp chưa cao. Hoạt động của chính quyền còn một số bất cập, công tác quản lý nhà nước có mặt chưa đáp ứng yêu cầu; quản lý đầu tư xây dựng các công trình, dự án đầu tư công còn hạn chế, nhất là trong giải phóng mặt bằng, thi công các công trình và giải ngân các nguồn vốn chậm; quản lý đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường còn bất cập; tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn diễn biến phức tạp, nhất là trong khai thác, chế biến khoáng sản và chế biến nông, lâm sản; năng lực dự báo, cảnh báo, phòng chống thiên tai có mặt còn yếu; chính quyền cơ sở ở một số nơi chưa kịp thời nắm bắt và giải quyết theo thẩm quyền các vấn đề phát sinh, gây bức xúc trong nhân dân.

Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chậm đổi mới, hiệu quả công tác vận động, tập hợp, đoàn kết, thuyết phục chưa cao; hoạt động giám sát đối với cơ quan nhà nước, các chương trình kinh tế - xã hội chưa hiệu quả; phản biện xã hội chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra.

C. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

I. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT

Nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức, song Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái đã sáng tạo, nỗ lực phấn đấu, đạt được nhiều thành tựu quan trọng và khá toàn diện trên các lĩnh vực và có mặt nổi trội.

Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa vùng thấp và vùng cao, giữa đô thị và nông thôn, giữa Yên Bái với các tỉnh trong vùng; cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới đạt kết quả nổi bật, là một trong những tỉnh đi đầu của vùng Tây Bắc; thương mại, dịch vụ có nhiều khởi sắc, đã hình thành được một số sản phẩm du lịch tiêu biểu, đặc trưng, có sức cạnh tranh; cải cách hành chính có nhiều tiến bộ, môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt; huy động và sử dụng vốn đầu tư toàn xã hội có hiệu quả, nhiều dự án hạ tầng kinh tế - xã hội được triển khai đồng bộ, tạo động lực phát triển và diện mạo mới cho đô thị, nông thôn, mở rộng kết nối các vùng, miền trong tỉnh và khu vực; văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, bảo đảm mọi người dân đều được chăm lo, thụ hưởng các chế độ, chính sách an sinh, phúc lợi xã hội; gìn giữ và phát huy giá trị bản sắc văn hóa tốt đẹp của đồng bào các dân tộc; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; kinh tế đối ngoại và hoạt động đối ngoại được mở rộng; chủ động khắc phục nhanh chóng, kịp thời hậu quả thiên tai, sớm ổn định cuộc sống cho nhân dân. Công tác xây dựng Đảng đạt nhiều kết quả quan trọng; phương thức lãnh đạo của Đảng và hoạt động của chính quyền không ngừng được đổi mới, ngày càng hiệu quả; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy đảng được nâng lên; vai trò, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị được phát huy; thực hiện tích cực, hiệu quả việc sắp xếp tổ chức, bộ máy, tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị bảo đảm ổn định, đồng thuận và là một trong những điểm sáng của cả nước về tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII; chủ động xây dựng và tạo được nguồn cán bộ chất lượng, nhất là cán bộ trẻ, nữ, dân tộc cho cả trước mắt và lâu dài. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước không ngừng được nâng lên. 03 đột phá chiến lược theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và 09 nhiệm vụ trọng tâm Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ tỉnh và  đề ra được cụ thể hóa và tập trung lãnh đạo thực hiện nghiêm túc, hiệu quả; qua đó góp phần khơi dậy và phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đồng sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, đưa tỉnh Yên Bái phát triển khá toàn diện, tạo những dấu ấn nổi bật, là cơ sở quan trọng để tỉnh tiếp tục phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn tới.

Tuy nhiên, kinh tế của tỉnh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; quy mô nền kinh tế còn nhỏ, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh thấp; giảm nghèo nhanh nhưng chưa thật sự bền vững, đời sống của một bộ phận người dân vùng cao, vùng dân tộc thiếu số còn nhiều khó khăn; chất lượng, hiệu quả trên một số lĩnh vực văn hóa - xã hội còn hạn chế; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp; công tác phòng, chống tham nhũng có mặt hiệu quả chưa cao; vai trò tiền phong, gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được phát huy đầy đủ; mục tiêu đến năm 2020 "Xây dựng Yên Bái phát triển toàn diện, bền vững, trở thành tỉnh phát triển khá trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc" chưa hoàn thành[25].

II. NGUYÊN NHÂN

1. Nguyên nhân của thành tựu đạt được. Những thành tựu đạt được 5 năm qua có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Đó là kết quả của quá trình nỗ lực, phấn đấu liên tục, bền bỉ qua nhiều nhiềm kỳ đại hội Đảng bộ tỉnh; sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, hiệu quả của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ; sự phối hợp, ủng hộ, tạo điều kiện của các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và các tỉnh bạn. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất, là tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên của của Đảng bộ, chính quyền, cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh; sự lãnh đạo sáng suốt, hiệu quả của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, sự đổi mới, sáng tạo của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh cùng các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể đã nỗ lực, cố gắng, huy động và khai thác hiệu quả mọi tiềm năng, lợi thế, nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, bản lĩnh, vững vàng, quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng phát triển.

2. Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm. Những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ tỉnh có nguyên nhân khách quan do Yên Bái là tỉnh miền núi nội địa, đa dân tộc, địa hình phức tạp, chia cắt, thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai dịch bệnh, tỷ lệ hộ nghèo cao; quy mô nền kinh tế nhỏ, sức cạnh tranh thấp, nguồn lực đầu tư còn hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa phát triển đồng bộ. Song, trực tiếp và quyết định là do nguyên nhân chủ quan.

Trước hết, do quá trình xác định mục tiêu, định hướng phát triển không lường hết được những khó khăn, thách thức, rủi ro phát sinh; đề ra một số chỉ tiêu, nhiệm vụ quá cao, không sát thực tiễn.

Thứ hai, năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền còn hạn chế, chậm đổi mới, có mặt hiệu quả thấp; có địa phương lãnh đạo cấp ủy, chính quyền có lúc, có việc thiếu sâu sát cơ sở, không nắm chắc tình hình để giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc; công tác phối hợp thực hiện nhiệm vụ của một số cơ quan, đơn vị cấp tỉnh với các địa phương thiếu đồng bộ, chặt chẽ.

Thứ ba, vai trò, trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị, lĩnh vực chưa cao; còn có tư tưởng trông chờ, thụ động, ỷ lại vào cấp trên; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm; thiếu quyết tâm, quyết liệt, ngại khó, không sát sao trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ được giao. Trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức các cấp chưa đáp ứng được yêu cầu; một số cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo chưa gương mẫu, thiếu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống, thiếu tinh thần trách nhiệm, gây phiền hà, sách nhiễu đối với người dân, doanh nghiệp.

Thứ tư, trong nhiệm kỳ đã phát sinh một số vụ việc phức tạp liên quan đến cán bộ chủ chốt và lãnh đạo một số sở, ngành của tỉnh, ảnh hưởng đến tư tưởng, tâm trạng cán bộ, đảng viên và nhân dân.

 

III. MỘT SỐ KINH NGHIỆM

Một là, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh toàn diện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực, tham nhũng. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đề cao trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu các cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị gắn liền với giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong Đảng.

Hai là, phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là trong Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và cấp ủy các cấp; khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xác định nhân dân là trung tâm, vừa là chủ thể, động lực của sự nghiệp đổi mới, mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; huy động sự chung sức, đồng lòng của nhân dân hướng vào xây dựng quê hương, đất nước.

Ba là, nắm vững, vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với điều kiện và yêu cầu thực tế của địa phương; đồng thời quyết tâm, quyết liệt, năng động trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế, khơi thông các điểm nghẽn, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực xã hội; dự báo đúng tình hình, nhận diện đúng thời cơ, thách thức, chú trọng tạo đột phá để thúc đẩy phát triển.

Bốn là, thực hiện nhất quán chủ trương, quan điểm phát triển bền vững, hài hòa giữa kinh tế với văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, ổn định chính trị và bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc; coi trọng công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận gắn với công tác thi đua, khen thưởng thiết thực, hiệu quả; động viên, khích lệ, nhân rộng những mô hình hay, cách làm mới, những gương điển hình tiên tiến, lan tỏa những giá trị nhân văn, tốt đẹp, tạo đồng thuận cao trong xã hội.

 

Phần thứ hai

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN

NHIỆM KỲ 2020-2025

 

Những năm tới, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới; toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc, đa chiều, vừa tạo thời cơ, vừa đặt ra nhiều thách thức đối với mọi quốc gia; chiến tranh thương mại, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo trong khu vực, nhất là ở Biển Đông diễn ra phức tạp hơn; ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 khả năng gây ra suy thoái và khủng hoảng kinh tế toàn cầu; biến đổi khí hậu cùng với những thách thức về an ninh con người, an ninh xã hội, an ninh phi truyền thống tiếp tục diễn biến khó lường.

Đất nước sau gần 35 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo thế và lực mới, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng cao; tuy nhiên, nền kinh tế phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tác động của đại dịch Covid-19, khả năng tăng trưởng kinh tế sẽ thấp hơn trong những năm đầu giai đoạn 2021-2025; bên cạnh đó, các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, đất nước ta; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, nặng nề.

Đối với tỉnh ta, cùng với những thành tựu quan trọng đạt được sau 30 năm tái lập, tạo nền tảng vững chắc để tỉnh phát triển trong những năm tới; đồng thời, việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách mới của Trung ương về hội nhập quốc tế sâu rộng, các chương trình mục tiêu quốc gia góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc; cơ hội khi tham gia đối tác, hợp tác hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; các chương trình, dự án động lực, trọng điểm, nhất là hạ tầng giao thông kết nối vùng, liên vùng đã và đang hoàn thiện, cùng truyền thống lịch sử, cách mạng và giá trị, bản sắc văn hóa, con người Yên Bái sẽ tiếp tục là động lực cho giai đoạn phát triển tới. Tuy nhiên, Yên Bái vẫn phải đối mặt với khó khăn của một tỉnh miền núi, kinh tế chậm phát triển, chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động thấp, kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu; thường xuyên chịu tác động của thiên tai, dịch bệnh ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tỉnh; khả năng phát triển kinh tế sau ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 có mặt khó khăn hơn.

Trước bối cảnh đó, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, nỗ lực vươn lên để phát triển nhanh và bền vững hơn trong những năm tới.

A. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

I. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN

1. Xây dựng và phát triển Yên Bái trên cơ sở khai thác hiệu quả các lợi thế, tiềm năng, thế mạnh của tỉnh; coi phát triển hài hòa kinh tế, xã hội, môi trường là nhiệm vụ cơ bản; chủ động tham gia tích cực các chương trình mục tiêu quốc gia góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc; đối tác, hợp tác hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; các chương trình, dự án động lực, trọng điểm, nhất là hạ tầng giao thông kết nối vùng, liên vùng; đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo động lực theo hướng phát triển xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc, đưa Yên Bái trở thành tỉnh khá trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc vào năm 2025[26] và nằm trong nhóm các tỉnh phát triển của Vùng vào năm 2030[27].

2. Tạo môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh hấp dẫn, thuận lợi, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy khởi nghiệp, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân trong những ngành chủ lực, có lợi thế của tỉnh như: Phát triển lâm nghiệp đa mục tiêu, chuyên canh nông sản chủ lực, đặc sản, hữu cơ và sản phẩm công nghệ cao; phát triển chăn nuôi, thủy sản cơ bản theo hướng tập trung, bảo đảm an toàn sinh học; công nghiệp chế biến lâm sản công nghệ cao; chế biến vật liệu xây dựng cao cấp; công nghiệp phụ trợ, may mặc, năng lượng tái tạo; phát triển mạnh dịch vụ, thương mại; đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.

3. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa - xã hội; bảo đảm an sinh, tiến bộ, công bằng xã hội, thiết thực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và sự hài lòng của nhân dân; phát huy giá trị văn hóa, xây dựng con người Yên Bái "thân thiện, nhân ái, đoàn kết, sáng tạo, hội nhập"; bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, thiết thực nâng cao chất lượng sống và chỉ số hạnh phúc cho nhân dân là giá trị cốt lõi.

4. Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, gắn kết đồng bộ giữa thành thị và nông thôn; đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới; phát triển toàn diện kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi. Xây dựng và thực hiện chương trình đột phá về cải cách hành chính toàn diện, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu của nền hành chính hiện đại, kiến tạo phát triển; nâng cao hiệu quả quản lý xã hội, cải thiện năng lực cạnh tranh của tỉnh.

5. Xây dựng Đảng bộ, hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh; đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, vai trò lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của các cấp ủy đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp, gắn với xây dựng chính quyền điện tử; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển của tỉnh.

II. MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

1. Mục tiêu: Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên; khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của tỉnh; đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển nhanh, bền vững theo hướng xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, xây dựng con người Yên Bái "thân thiện, nhân ái, đoàn kết, sáng tạo, hội nhập"; bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đưa Yên Bái trở thành tỉnh khá trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc vào năm 2025 và nằm trong nhóm các tỉnh phát triển của Vùng vào năm 2030.

2. Chỉ tiêu đến năm 2025

Về kinh tế:

(1) Tốc độ tăng GRDP bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt trên 7,5%;  GRDP bình quân đầu người đến năm 2025 đạt trên 60 triệu đồng.

(2) Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp, thủy sản 22%; Công nghiệp - xây dựng 30%; Dịch vụ 48%.

(3) Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt trên 7.000 tỷ đồng.

(4) Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn đạt 100.000 tỷ đồng.

(5) Tỷ lệ đô thị hóa đạt 28%.

(6) Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân 6,2%/năm.

Về văn hóa - xã hội:

(7) Tuổi thọ trung bình người dân đạt 74,5 tuổi; số năm sống khỏe đạt tối thiểu 68 năm.

 

(8) Chỉ số hạnh phúc của người dân tăng 25% so với năm 2020[28]

(9) Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo được cấp có văn bằng, chứng chỉ đạt 40%.

(10) Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn quốc gia) giảm bình quân trên 4%/năm.

(11) Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 96,5%; có 11 bác sỹ, 35 giường bệnh trên một vạn dân.

(12) Tỷ lệ hộ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa là 85%; tỷ lệ thôn, bản, tổ dân phố đạt chuẩn văn hóa là 75%.

(13) Trên 78% tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 10% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; công nhận 02 huyện đạt chuẩn nông thôn mới (huyện Văn Yên và huyện Yên Bình), thị xã Nghĩa Lộ hoàn thành xây dựng nông thôn mới[29].

Về môi trường:

(14) Tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch đạt trên 91%; tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh đạt 98%.

(15) Tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn đô thị đạt trên 93%, nông thôn đạt trên 50%.

(16) Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%.

(17) Duy trì ổn định tỷ lệ che phủ rừng 63%.

Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị:

(18) Số đảng viên kết nạp hằng năm từ 1.800 đảng viên trở lên.

(19) Số tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên hằng năm đạt từ 90% trở lên; số đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ hằng năm đạt từ 85% trở lên.

3. Định hướng đến năm 2030

- Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân giai đoạn 2026-2030 đạt trên 8%; tính chung cả giai đoạn 2021-2030 đạt gần 8%.

- GRDP bình quân đầu người đạt trên 90 triệu đồng.

- 05/07 huyện đạt chuẩn nông thôn mới.

B. CÁC ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC VÀ CHƯƠNG TRÌNH TRỌNG ĐIỂM

I. CÁC ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC

1. Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm huy động, quản lý và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển; tập trung cải cách hành chính, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh; đẩy mạnh số hóa trong quản lý xã hội và phục vụ nhân dân, thiết thực nâng cao mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp.

2. Phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là nâng cao chất lượng nhân lực khu vực nông nghiệp, nông thôn, nhân lực đồng bào dân tộc thiểu số và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy giá trị, bản sắc văn hoá, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên của con người Yên Bái, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển.

3. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, trọng tâm là hạ tầng giao thông, thông tin, viễn thông, thủy lợi, hạ tầng đô thị, hạ tầng khu, cụm công nghiệp, liên kết nông thôn với đô thị, công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp và liên kết vùng, đáp ứng yêu cầu phát triển.

II. CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRỌNG ĐIỂM

1. Cơ cấu lại ngành nông lâm nghiệp theo chuỗi giá trị gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững; tập trung phát triển mạnh kinh tế lâm nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh, phấn đấu trở thành trung tâm chế biến lâm sản công nghệ cao của vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

2. Phát triển du lịch xanh, bản sắc, hấp dẫn; là một trong những điểm đến du lịch hàng đầu của vùng Tây Bắc.

3. Tích cực, chủ động thu hút đầu tư theo hướng hiện đại, thân thiện với môi trường; thúc đẩy khởi nghiệp, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.

4. Phát huy nhân tố con người, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, thích ứng với Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, từng bước phát triển nền kinh tế số, xã hội số.

5. Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên cơ sở phát huy vai trò chủ thể của người dân và cộng đồng gắn với bảo vệ môi trường, sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu.

 

 

C. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

I. KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG - AN NINH

1. Tiếp tục đổi mới tư duy đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, hài hòa kinh tế - xã hội - môi trường. Bám sát chủ trương, định hướng của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, tập trung giải quyết hài hòa, hợp lý các mối quan hệ lớn trong quá trình phát triển phù hợp với thực tiễn địa phương, nhất là mối quan hệ: giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường…. Quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc vào từng chủ trương, quy hoạch, kế hoạch và chính sách của tỉnh; tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung, tích hợp các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm với quy hoạch tỉnh; trên cơ sở đó, ban hành các nghị quyết, đề án, xây dựng cơ chế, chính sách thực hiện hiệu quả 03 đột phá chiến lược, 05 chương trình trọng điểm nhằm khơi thông các điểm nghẽn, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ, tạo động lực mới cho phát triển; tận dụng tối đa tiềm năng, lợi thế của tỉnh, huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực xã hội, các thành phần kinh tế, trọng tâm là kinh tế tư nhân, nguồn lực đất đai, tài nguyên, văn hóa, con người Yên Bái; khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên của nhân dân các dân tộc, tạo sức mạnh nội sinh cho phát triển bền vững, hài hòa, hợp lý giữa các vùng, miền, các lĩnh vực của đời sống xã hội; bảo đảm phát triển bao trùm và hài hòa kinh tế - xã hội - môi trường vì mục tiêu lấy con người là trung tâm, vừa là chủ thể, động lực của sự phát triển, thiết thực đem lại sự hài lòng và lợi ích cho người dân về chất lượng cuộc sống, nâng cao chỉ số hạnh phúc của người dân.

2. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển xanh, phù hợp với tiềm năng, lợi thế của tỉnh

2.1. Tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững. Dựa trên những lĩnh vực có lợi thế của tỉnh, thế mạnh của từng vùng, cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả, giá trị gia tăng và phát triển bền vững; phát triển nông nghiệp đa chức năng gắn với công nghiệp chế biến, thương mại, du lịch nông thôn.

Với vùng cao: Bảo đảm vững chắc sinh kế cho người dân; chuyển mạnh từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa đối với những sản phẩm chủ lực, ưu tiên những sản phẩm đặc sản, hữu cơ[30] gắn với phát triển nhanh các sản phẩm OCOP; tận dụng lợi thế về điều kiện địa hình, khí hậu, cảnh quan thiên nhiên, văn hóa dân tộc để xây dựng chuỗi cung ứng kép đặc trưng, có chất lượng: phát triển nông nghiệp, nông thôn - du lịch; nông nghiệp, nông thôn - dịch vụ, thương mại, thiết thực nâng cao thu nhập cho người dân vùng cao, kết hợp với bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội, môi trường sinh thái gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững.

Với vùng thấp: Hình thành các vùng nguyên liệu chuyên canh nông sản theo chuỗi giá trị với một số sản phẩm chủ lực[31], có cấp mã số vùng trồng, mã vạch sản phẩm, truy suất nguồn gốc, áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất lượng (VietGAP, GlobalGAP), gắn với các khu, cụm công nghiệp chế biến và hệ thống vận chuyển, kho bãi. Quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu nông sản tập trung theo hướng liên kết nhiều vùng sản xuất vừa và nhỏ liền kề tạo ra vùng sản xuất lớn. Hình thành phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, chú trọng khâu bảo quản, chế biến nông sản; xây dựng hệ thống trung tâm kết nối xúc tiến tiêu thụ, ổn định thị trường cho sản phẩm nông nghiệp.

Mở rộng quy mô sản xuất hàng hóa tập trung theo hướng phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác. Phát huy hiệu quả chính sách của Trung ương và ban hành cơ chế, chính sách của tỉnh để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; phát triển mạnh hợp tác xã kiểu mới. Đẩy mạnh liên kết ngang giữa nông dân trong hợp tác xã, doanh nghiệp; lấy doanh nghiệp và hợp tác xã dẫn dắt, thúc đẩy liên kết sản xuất giữa các hộ dân, tổ hợp tác trong chuỗi giá trị. Đẩy mạnh liên kết vùng trong tỉnh, các tỉnh trong vùng và cả nước. Đổi mới cơ chế và tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống dịch vụ công (khuyến nông, bảo vệ thực vật, thú y, kiểm lâm…), gắn kết với hệ thống dịch vụ kỹ thuật của doanh nghiệp tư nhân; ưu tiên hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất trên địa bàn các vùng chuyên canh chủ lực. Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng lâm nghiệp và chăn nuôi; chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các loại cây có hiệu quả kinh tế cao hơn. Duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025 đạt trên 4,5%/năm; giá trị thu nhập bình quân trên diện tích đất canh tác nông nghiệp tập trung tăng lên 150 triệu đồng/ha.

Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, thủy sản theo hướng tập trung quy mô lớn, ngoài khu dân cư, áp dụng công nghệ, đảm bảo vệ sinh môi trường và an toàn dịch bệnh, đạt tiêu chuẩn thực phẩm sạch gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ. Tăng đàn gia súc chính đến năm 2025 lên khoảng 1 triệu con, phát triển đại gia súc tại các huyện Lục Yên, Văn Chấn, Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Yên, Yên Bình, Trấn Yên; chăn nuôi lợn, gia cầm theo hướng trang trại, gia trại tại các huyện, thị xã, thành phố, bảo đảm an toàn sinh học, đi vào chuỗi cung ứng có giá trị và thương hiệu. Mở rộng nuôi trồng tập trung, thâm canh, bán thâm canh các loại thủy sản giá trị cao tại các huyện Yên Bình, Trấn Yên, Lục Yên, Văn Yên, thành phố Yên Bái... phát triển sản phẩm cá sạch, cá đặc sản Hồ Thác Bà, nâng giá trị thu nhập bình quân trên diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản đến năm 2025 đạt 300 triệu đồng/ha/năm; nâng tỷ trọng ngành chăn nuôi lên 30% năm 2025.

Xác định lâm nghiệp là thế mạnh, là khâu đột phá trong cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Phát triển lâm nghiệp đa mục tiêu: kinh tế, xã hội, môi trường; tăng nhanh tỷ trọng kinh tế lâm nghiệp lên 37% vào năm 2025; đến năm 2025 có trên 40.000 ha rừng cây gỗ lớn; khoảng 100.000 ha rừng trồng trở lên được cấp chứng chỉ FSC; bình quân hằng năm trồng trên 12.000 ha rừng các loại. Quy hoạch lại, tập trung phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn bằng các loại cây gỗ lớn, lâm đặc sản, cây ăn quả, quế... gắn với phát triển lâm sản ngoài gỗ và cây dược liệu dưới tán rừng. Ban hành chính sách đặc thù đẩy mạnh xã hội hóa nghề rừng, giao đất, giao rừng, nâng gấp đôi giá dịch vụ bảo vệ rừng đi cùng với nâng cao hiệu quả kinh tế rừng, đời sống người dân ổn định và khá lên từ rừng; quản lý chặt chẽ, bảo vệ, khoanh nuôi và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường, thúc đẩy hệ sinh thái đặc trưng, bền vững. ng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học trong sản xuất giống phục vụ mục tiêu trồng rừng thâm canh, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả đối với nhóm cây chủ lực của tỉnh; thu hút doanh nghiệp có thể mạnh đầu tư lâm nghiệp bền vững; liên kết doanh nghiệp với các hộ dân và hợp tác xã sản xuất, chế biến lâm sản theo chuỗi giá trị, nhất là sản phẩm từ gỗ rừng trồng, Quế, Măng tre Bát Độ, Sơn Tra.... Hình thành các khu, cụm công nghiệp gắn với vùng nguyên liệu chế biến lâm sản, thu hút đầu tư chế biến công nghệ cao, phát triển sản phẩm có thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế.

Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới toàn diện, đồng bộ, vững chắc. Phát huy sức mạnh cộng đồng và đổi mới hệ thống chính trị để xây dựng nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc dân tộc, môi trường cảnh quan, không gian xanh, sạch, đẹp; quốc phòng, an ninh bảo đảm; lấy đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả sản xuất là chính, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt. Đặc biệt đề cao vai trò chủ thể, tự nguyện, trực tiếp của nhân dân quản lý và xây dựng nông thôn mới; huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới của 76 xã đã đạt chuẩn gắn với đô thị hóa nông thôn; phấn đấu đến năm 2025, có thêm 46 xã đạt chuẩn nông thôn mới, huyện Văn Yên, huyệnYên Bình đạt tiêu chí huyện nông thôn mới, thị xã Nghĩa Lộ hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; thu nhập bình quân người dân nông thôn đạt trên 50 triệu đồng/người/năm.

2.2. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp bền vững, hiệu quả, trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu lại ngành công nghiệp, giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác khoáng sản dưới 7% bảo đảm tiêu chuẩn môi trường; nâng cao tỷ trọng công nghiệp chế biến, chủ lực là công nghiệp chế biến vật liệu xây dựng cao cấp, chế biến nông lâm sản, trọng tâm là chế biến gỗ rừng trồng công nghệ cao, chú trọng tiểu thủ công nghiệp truyền thống (dệt thổ cẩm, chế tác đá...), đưa Yên Bái trở thành trung tâm chế biến lâm sản của vùng Trung du và Miền núi phía Bắc, tạo động lực thúc đẩy mạnh toàn ngành công nghiệp; ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo sử dụng công nghệ mới, tiên tiến, có giá trị gia tăng gắn với vùng nguyên liệu và có dư địa phát triển; phát huy tối đa vai trò các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh của tỉnh; khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trợ, may mặc, năng lượng tái tạo.... Chủ động, tích cực thu hút các dự án đầu tư công nghiệp có quy mô lớn, sử dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường, có giá trị gia tăng cao và một số ngành công nghiệp nhỏ và vừa phát triển bền vững, bảo đảm môi trường sinh thái, sử dụng nhiều lao động để chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn; phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp đến năm 2025 đạt khoảng 20.000 tỷ đồng, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng bình quân trên 9%/năm, đóng góp khoảng 25% GRDP trên địa bàn. Rà soát, xác lập các vùng phát triển công nghiệp hợp lý trong quy hoạch tỉnh, phù hợp với đặc thù của từng vùng, từng địa phương; đánh giá hiệu quả và cơ cấu lại các khu công nghiệp hiện có; tiếp tục ưu tiên hoàn thiện hạ tầng các khu, cụm công nghiệp Phía Nam, Âu Lâu, cụm công nghiệp Minh Quân, Bảo Hưng, Yên Thế..., bảo đảm đồng bộ; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hạ tầng khu công nghiệp với quy mô khoảng 2.000 ha bên hữu ngạn sông Hồng, kết nối với nút giao IC13, IC14 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai theo hướng hiện đại, thân thiện môi trường.

2.3. Phát triển mạnh dịch vụ, thương mại; đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Tập trung phát triển các ngành dịch vụ thế mạnh, như: Y tế, giáo dục đào tạo, viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; phát huy lợi thế trong mối liên kết vùng, liên vùng và đối tác hợp tác trong tuyến hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh để thu hút các ngành dịch vụ giá trị gia tăng cao, như: Vận tải, logistics, kho bãi trung chuyển, giao nhận xuất nhập khẩu hàng hóa, khoa học công nghệ, dịch vụ thể thao, dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, công nghiệp… Phát triển các hình thức, loại hình kinh doanh thương mại phù hợp với từng vùng, địa phương và nhu cầu xã hội; tiếp tục thu hút, mở rộng hệ thống siêu thị, trung tâm mua sắm, chuỗi cửa hàng tiện lợi tại các đô thị, trung tâm huyện lỵ; chuyển đổi mô hình hoạt động hoặc cơ cấu lại, đầu tư, nâng cấp hệ thống chợ dân sinh truyền thống gắn với du lịch. Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại, mở rộng, đa dạng hóa thị thường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu bền vững cho các sản phẩm hàng hóa lợi thế, nhất các sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chủ lực của tỉnh, tận dụng cơ hội triển khai thực hiện các Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và các nước[32]; kết nối mạnh với thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN...; nghiên cứu liên kết xuất khẩu các sản phẩm tương đồng với các địa phương có thị trường ổn định; phấn đấu tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội đến năm 2025 đạt 30.000 tỷ đồng, giá trị xuất khẩu hàng hóa đạt trên 500 triệu USD.

Quy hoạch và xây dựng chiến lược phát triển du lịch toàn diện, bền vững, trọng tâm, trọng điểm nhằm phát huy hiệu quả lợi thế tài nguyên du lịch của tỉnh; quy hoạch, phát triển huyện Mù Cang Chải thành huyện du lịch, thị xã Nghĩa Lộ thành thị xã văn hóa, du lịch; liên kết phát triển du lịch vùng, liên vùng, nhất là vùng Trung du và Miền núi phía Bắc, kết nối hiệu quả với du lịch vùng Đồng bằng sông Hồng, Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh - Ninh Bình; tham gia xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch "Con đường di sản Tây Bắc"; đẩy mạnh xã hội hóa và thu hút các nhà đầu tư chiến lược phát triển các sản phẩm du lịch theo hướng chuyên nghiệp, khác biệt, bản sắc, hấp dẫn, thân thiện môi trường, phù hợp với nhiều phân khúc khách hàng trong và ngoài nước; trọng tâm là xây dựng, định vị rõ thương hiệu du lịch Yên Bái và hướng tới hoàn thiện hệ sinh thái du lịch xanh theo chuỗi giá trị, tạo nên hình ảnh và điểm đến đặc thù: "Yên Bái - Nơi hội tụ sắc màu Tây Bắc" với các dòng sản phẩm chủ đạo: Du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng hài hòa với thiên nhiên; du lịch trải nghiệm và khám phá; du lịch văn hóa cộng đồng dân tộc, lễ hội truyền thống; du lịch lịch sử, văn hóa tâm linh; du lịch thể thao, vui chơi, giải trí; du lịch MICE (du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện…)… ở 04 vùng du lịch trọng điểm của tỉnh[33]; gắn du lịch với phát triển nông nghiệp, nông thôn miền núi, dân tộc và ngành tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống và các ngành dịch vụ có liên quan; ưu tiên xây dựng cơ chế, chính sách thu hút đầu tư hạ tầng du lịch đồng bộ, phù hợp với bản sắc địa phương; đào tạo nguồn nhân lực dịch vụ du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển ngành và ứng dụng công nghệ số thúc đẩy phát triển du lịch sáng tạo, thông minh; tập trung hoàn thành các dự án du lịch đã được cấp chủ trương đầu tư, tiếp tục thu hút các dự án đầu tư phát triển du lịch xanh, sớm hình thành và đưa vào khai thác một số sản phẩm du lịch tiêu biểu, nổi trội của tỉnh tại các điểm du lịch: Hồ Thác Bà, Đầm Vân Hội, Nậm Khắt, Khau Phạ, La Pán Tẩn, Tú Lệ, Suối Giàng, Nghĩa Lộ, Trạm Tấu, Đông Cuông….; phấn đấu đến năm 2025 đưa Yên Bái trở thành một trong những điểm đến du lịch hàng đầu của vùng Tây Bắc, đón trên 1,5 triệu lượt khách du lịch với doanh thu đạt trên 1.500 tỷ đồng.

2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài chính, ngân sách. Huy động, quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính đáp ứng yêu cầu và mục tiêu phát triển; nâng cao tính minh bạch, dân chủ, công khai trong quản lý ngân sách, xây dựng cơ chế giám sát tài chính đồng bộ, hiệu quả. Tăng cường phân cấp, ủy quyền gắn với trách nhiệm người đứng đầu về quản lý tài chính, tài sản công; quản lý và nuôi dưỡng nguồn thu bảo đảm bền vững, phù hợp với tăng trưởng kinh tế và khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh; tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp nguồn thu, tỷ lệ phần trăm điều tiết các nguồn thu giữa các cấp ngân sách phù hợp, nâng cao trách nhiệm, chủ động trong quản lý ngân sách. Cơ cấu lại chi ngân sách, tăng tỷ trọng chi đầu tư, giảm tỷ trọng chi thường xuyên; đổi mới cơ chế phân bổ, giao dự toán chi ngân sách theo hướng khoán chi, đặt hàng, đấu thầu, giao nhiệm vụ cơ quan, đơn vị gắn với chất lượng, hiệu quả sản phẩm công việc; đẩy nhanh tiến độ tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp công và tinh giản biên chế. Sử dụng ngân sách đúng quy định, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế trọng điểm, chăm lo an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh. Ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích, đẩy mạnh xã hội hóa, huy động sự tham gia cung ứng dịch vụ công của các thành phần kinh tế; hướng tới sự công bằng giữa các cơ sở dịch vụ công lập và ngoài công lập, tạo sự cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng phục vụ; thúc đẩy xã hội hóa lĩnh vực, ngành mà xã hội có khả năng thực hiện nhằm tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển.

2.5. Tăng cường thu hút đầu tư, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân. Coi đây là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo môi trường, điều kiện thuận lợi hỗ trợ đầu tư và sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế; khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là lĩnh vực sản xuất; thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp; chuyển các đơn vị sự nghiệp đủ điều kiện sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; xây dựng và phát triển các hoạt động kết nối doanh nghiệp theo cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị phù hợp với xu thế phát triển và khả năng cạnh tranh. Khuyến khích, hỗ trợ, hướng dẫn phát triển kinh tế tập thể, nhất là hợp tác xã kiểu mới, tổ hợp tác kết nối với kinh tế hộ nông nghiệp, nông thôn và đô thị; quan tâm nâng cao hiệu quả hoạt động hiệp hội doanh nghiệp tỉnh làm nòng cốt thúc đẩy đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, là lực lượng chủ lực, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội địa phương; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quản trị, sản xuất, kinh doanh, xây dựng thương hiệu. Hoàn thành cổ phần hóa, thoái vốn gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Chủ động thu hút đầu tư, ưu tiên các nhà đầu tư trong và ngoài nước có tiềm lực về vốn, quản trị tiên tiến, sử dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, có giá trị gia tăng cao, tạo sức lan tỏa và khả năng dẫn dắt, kết nối chặt chẽ, hữu cơ với khu vực kinh tế trong tỉnh, trong và ngoài nước; nâng cao tỷ trọng đóng góp của khu vực FDI trong cơ cấu kinh tế; tăng cường vận động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn ODA, NGO cho đầu tư phát triển.

3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả lĩnh vực văn hóa - xã hội và phát triển con người

3.1. Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giải quyết việc làm. Thực hiện hiệu quả yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục - đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy - học ở tất cả các bậc học, hướng tới phát triển con người toàn diện cả “Đức - Trí - Thể - Mĩ”, có khát vọng vươn lên, ý chí tự lực, tự cường. Tiếp tục sắp xếp quy mô, mạng lưới trường, lớp gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; ưu tiên nguồn lực đầu tư cho giáo dục chất lượng cao, giáo dục dân tộc, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục mầm non ở nơi có điều kiện; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo "vừa hồng, vừa chuyên"; triển khai hiệu quả đề án đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Phấn đấu đến năm 2025, cơ bản hệ thống phòng học được kiên cố hóa; trên 65% số trường mầm non và trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia; nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục các bậc học; tiếp tục tăng tỷ lệ học sinh dân tộc được học trường nội trú, bán trú với đầy đủ các điều kiện học tập thiết yếu; phát triển trường THPT chuyên Nguyễn Tất Thành trở thành trường có thứ hạng cao trong hệ thống các trường chuyên của cả nước.

Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực sự trở thành một trong những đột phá quan trọng, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế; phấn đấu đến năm 2025 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 70%, trong đó lao động có chứng chỉ đạt 40%; chuyển dịch lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp bình quân 2%/năm. Đổi mới và nâng cao chất lượng hiệu quả hệ thống cơ sở đào tạo nghề đồng bộ với đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; ưu tiên đầu tư cho đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn, đội ngũ nhân lực kỹ thuật, quản lý, quản trị doanh nghiệp; chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động; sắp xếp, nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu thị trường; gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với sử dụng và tạo việc làm cho lao động; khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào tỉnh ưu tiên sử dụng lao động địa phương theo hướng cộng sinh, cộng hưởng; phát huy vai trò của Trung tâm Dịch vụ việc làm, sàn giao dịch việc làm trực tuyến quỹ xuất khẩu lao động nhằm thiết thực nâng cao hiệu quả việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động.

Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo, liêm chính, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự nghiệp đổi mới. Có chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học, kỹ thuật, ngành lĩnh vực trọng điểm của tỉnh; đổi mới cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài quản lý, lãnh đạo của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập; thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021-2030, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có môi trường thuận lợi làm việc và cống hiến.

3.2. Phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Yên Bái "thân thiện, nhân ái, đoàn kết, sáng tạo, hội nhập". Xây dựng và phát huy những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc các dân tộc, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ xã hội, vào từng người dân, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng dân cư, vào mọi lĩnh vực cuộc sống và quan hệ con người, tạo nên đời sống tinh thần cao đẹp với hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Yên Bái "thân thiện, nhân ái, đoàn kết, sáng tạo, hội nhập", đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển. Thực hiện tốt mục tiêu xây dựng con người phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức, tinh thần, năng lực sáng tạo, ý thức công dân và sự tuân thủ pháp luật; chú trọng khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, tính cộng đồng, ý thức tự lực, tự cường vươn lên của người dân Yên Bái. Có giải pháp mạnh mẽ ngăn chặn hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, cái xấu, cái ác và các tệ nạn xã hội; xây dựng môi trường sống văn hóa, bình an, hạnh phúc cho nhân dân.

Tiếp tục bảo tồn và phát huy giá trị các di sản, văn hóa vật thể, phi vật thể gắn với phát triển công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa; phát triển văn hóa gắn với du lịch nhằm tận dụng tài nguyên văn hóa tham gia vào nâng cao sức cạnh tranh nền kinh tế của tỉnh; đồng thời góp phần bồi đắp, phát triển hệ giá trị văn hóa ngày càng phong phú, thực sự trở thành sức mạnh mềm cho sự nghiệp phát triển của quê hương, đất nước. Coi trọng chất lượng, hiệu quả phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; triển khai cuộc vận động "xây dựng gia đình hạnh phúc", là hạt nhân nuôi dưỡng cuộc sống hạnh phúc cho mỗi người; phát huy những giá trị nhân văn, sống đẹp, sống có ích "mình vì mọi người, mọi người vì mình" và tinh thần tương thân, tương ái trong xã hội; chú trọng xây dựng môi trường văn hóa công sở trong sạch, dân chủ, đoàn kết. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hội văn học nghệ thuật, nâng cao vị trí, vai trò, tạo điều kiện để đội ngũ văn nghệ sỹ sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị lan tỏa sức sống xã hội lành mạnh, hạnh phúc. Đẩy mạnh phong trào toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại; lựa chọn, đầu tư hiệu quả cho thể thao thành tích cao; phấn đấu tỷ lệ dân số thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao năm 2025 đạt 45%.

Phát triển mạnh mẽ thông tin, truyền thông theo hướng đa phương tiện, từng bước ứng dụng công nghệ hiện đại. Tăng cường quản lý và phát huy vai trò các cơ quan báo chí, bảo đảm đúng tôn chỉ, mục đích; khai thác hiệu quả các loại hình thông tin tiên tiến, đưa báo chí trở thành công cụ hữu hiệu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu của nhân dân; chủ động, kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong, mỹ tục.

3.3. Quản lý phát triển xã hội tiến bộ, hài hòa, công bằng, an toàn, nâng cao chất lượng cuộc sống, sự hài lòng và hạnh phúc của nhân dân. Nâng cao năng lực quản trị xã hội của chính quyền các cấp, thực hiện tốt chính sách pháp luật về các vấn đề xã hội, chính sách xã hội, an sinh xã hội, chính sách người có công, bảo vệ và chăm sóc người cao tuổi, trẻ em; đẩy mạnh thực hiện hiệu quả chiến lược quốc gia về phát triển thanh niên, bình đẳng giới, dân số; chú trọng phúc lợi xã hội, từng bước bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, giáo dục, y tế... Quan tâm đầy đủ quyền và lợi ích của người lao động, phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 20% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, 15% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Tập trung đẩy lùi tệ nạn xã hội, kiểm soát ma túy và phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS. Tiếp tục huy động sự vào cuộc trách nhiệm của hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội chung tay thực hiện công tác giảm nghèo; khơi dậy tinh thần tự giác, tự lực vươn lên thoát nghèo của người nghèo, nhất là ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm trên 4%. Tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ quy định của pháp luật; vận động, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ đoàn kết, sống tốt đời đẹp đạo, tích cực đóng góp trong phát triển kinh tế, chăm lo an sinh, phúc lợi xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Phát triển hệ thống y tế theo hướng hiện đại, hiệu quả trên cơ sở dự phòng tích cực và chủ động, gắn kết y học cổ truyền với y học hiện đại; nâng cấp trang, thiết bị các bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh, trung tâm y tế tuyến huyện, bảo đảm ít nhất 50% trung tâm y tế cấp huyện đạt tiêu chuẩn hạng II trở lên; quan tâm đầu tư đồng bộ và phát huy hoạt động của y tế cơ sở trong chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, nhất là ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đẩy mạnh hợp tác, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ từ các bệnh viện tuyến Trung ương, đưa Bệnh viện Đa khoa tỉnh cơ bản trở thành trung tâm khám chữa bệnh chất lượng cao của khu vực Tây Bắc; tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ thầy thuốc, nhất là đội ngũ bác sỹ có trình độ, năng lực chuyên môn sâu, có y đức, trách nhiệm. Tiếp tục đổi mới hoạt động, nâng cao chất lượng các đơn vị sự nghiệp y tế công lập theo hướng tự chủ; khuyến khích phát triển các dịch vụ y tế ngoài công lập và khám chữa bệnh chất lượng cao ở khu vực đô thị; hình thành các trung tâm khám, chữa bệnh, điều trị theo yêu cầu tại các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện. Thực hiện tốt các chính sách về dinh dưỡng, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân; phấn đấu đến năm 2025 trên 80% dân số được quản lý sức khỏe; trên 90% người dân hài lòng với dịch vụ y tế.

4. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, từng bước phát triển nền kinh tế số, xã hội số, thích ứng Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trọng tâm là ứng dụng, chuyển giao công nghệ mới, kỹ thuật tiến bộ vào các ngành kinh tế ưu tiên của tỉnh, nhất là lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chế biến, chế tạo..., nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, thúc đẩy môi trường kinh doanh mới, thích ứng với cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Tập trung đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại, an ninh, an toàn; triển khai internet băng thông rộng chất lượng cao trên phạm vi toàn tỉnh; xây dựng, vận hành hiệu quả đô thị thông minh gắn với chính quyền điện tử, thúc đẩy tiếp cận kinh tế số, xã hội số. Tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ của tỉnh; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, thu hút đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật có năng lực, trình độ của tỉnh. Thực hiện hiệu quả Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025"; phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp công nghệ cao.

5. Tiếp tục thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và phát triển đô thị. Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, trọng điểm, có sức lan tỏa, kết nối phát triển vùng, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trọng tâm là hạ tầng giao thông, đô thị kết nối nông thôn, thông tin, viễn thông, thủy lợi, khu, cụm công nghiệp. Đẩy mạnh các hình thức xã hội hóa đầu tư, huy động tối đa các nguồn vốn của các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư hạ tầng khu, cụm công nghiệp, hạ tầng thương mại, dịch vụ, du lịch…; thực hiện hiệu quả hình thức đầu tư đối tác công tư (PPP). Sớm hoàn thành và đưa vào sử dụng các công trình trọng điểm: Chương trình đô thị miền núi phía Bắc - thành phố Yên Bái; Công trình cầu Cổ Phúc, huyện Trấn Yên; các dự án giao thông kết nối đường Trạm Tấu - Bắc Yên, Khánh Hòa (Lục Yên) - Văn Yên, Thị xã Nghĩa Lộ với cao tốc Nội Bài - Lào Cai; Dự án chỉnh trị tổng thể kè Ngòi Thia (thị xã Nghĩa Lộ); Dự án Đê chống ngập sông Hồng khu vực xã Giới Phiên, thành phố Yên Bái; đưa vào vận hành Đô thị thông minh gắn với chính quyền điện tử; hoàn thành đưa điện về các thôn, bản chưa có điện lưới quốc gia. Đầu tư mới một số dự án động lực: Dự án Đô thị động lực thành phố Yên Bái (nguồn vốn WB); Khu trung tâm hành chính thành phố Yên Bái bên hữu ngạn sông Hồng; hệ thống xử lý nước thải, rác thải 02 đô thị thành phố Yên Bái và thị xã Nghĩa Lộ; các tuyến đường: Quốc lộ 32C - Quốc lộ 37 - đường Yên Ninh (thành phố Yên Bái); Đông An - Gia Hội; đường nối Quốc lộ 32 (thị xã Nghĩa Lộ) với tỉnh lộ 174 (huyện Trạm Tấu); Sơn Lương - Nậm Mười - Sùng Đô (huyện Văn Chấn); Tân Lĩnh - Minh Chuẩn - Khai Trung (huyện Lục Yên)...; xây dựng mới Trụ sở Tỉnh ủy, Trung tâm Hội nghị tỉnh, Trung tâm thi đấu thể thao tỉnh đủ điều kiện tổ chức các hoạt động cấp quốc gia; kiên cố hóa khoảng 2.000 km đường giao thông nông thôn; tiếp tục nâng cấp hạ tầng điện, nước sạch, môi trường, thủy lợi phục vụ phát triển đô thị, nông thôn, khu, cụm công nghiệp.

Hoàn thiện, quản lý chặt chẽ quy hoạch đô thị gắn với quy hoạch nông thôn mới với tầm nhìn dài hạn; thực hiện hiệu quả chương trình phát triển đô thị theo hướng đồng bộ cả về kinh tế, xã hội, kiến trúc và chất lượng sống của người dân; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phù hợp với xu hướng phát triển đô thị thông minh, xanh, bản sắc, thích ứng với biến đổi khí hậu; gắn phát triển đô thị với xây dựng nông thôn mới; lấy đô thị là động lực dẫn dắt phát triển nông thôn, đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa; tập trung nguồn lực đầu tư phát triển 02 đô thị trọng điểm, tiên phong, đi đầu trong đổi mới sáng tạo, trở thành động lực thúc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển; sớm đưa thành phố Yên Bái trở thành đô thị loại II (đô thị xanh, bản sắc, hạnh phúc); phấn đấu đến năm 2025 thị xã Nghĩa Lộ trở thành đô thị loại III (thị xã văn hóa - du lịch xanh); 03 thị trấn (Cổ Phúc, Yên Bình, Mậu A và vùng phụ cận) đáp ứng tiêu chí đô thị loại IV, phát triển thêm tối thiểu 14 đô thị loại V[34].

6. Quan tâm phát triển toàn diện kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi. Ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030. Khai thác tiềm năng, lợi thế về đất đai, tài nguyên, cảnh quan, khí hậu để đẩy mạnh phát triển kinh tế, giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào vùng cao so với vùng thấp, phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo 02 huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải bình quân giai đoạn 2020-2025 giảm trên 5%/năm; đến năm 2025 huyện Mù Cang Chải cơ bản không còn là huyện nghèo; ít nhất 40 xã đặc biệt khó khăn đạt tiêu chí nông thôn mới. Quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng, ưu tiên hệ thống giao thông kết nối từ trục chính tới xã, thôn bản, cơ sở vật chất các trường học, trạm y tế, trụ sở xã, điện lưới quốc gia, các công trình thủy lợi…[35]. Hoàn thành quy hoạch, sắp xếp ổn định dân cư, di dời, bố trí 100% số hộ đang cư trú tại các vùng xung yếu, có nguy cơ rủi ro cao do tác động của biến đổi khí hậu đến nơi an toàn. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, y tế; triển khai hiệu quả chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; bảo tồn và phát huy bản sắc, giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; chăm lo quy hoạch, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, bảo đảm tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số phù hợp với tỷ lệ dân số là người dân tộc thiểu số ở từng địa phương.

7. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đồng bộ, thống nhất với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; quản lý chặt chẽ, công khai, minh bạch và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài nguyên đất, nước, khoáng sản... Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm về bảo vệ tài nguyên, môi trường, giữ gìn cảnh quan, hệ sinh thái tự nhiên, bảo đảm điều kiện sống an toàn, lành mạnh. Tiếp tục giải quyết hài hòa vấn đề môi trường trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là sản xuất công nghiệp, khai thác, chế biến khoáng sản, nông, lâm sản; khuyến khích đầu tư công nghệ hiện đại để thu gom, xử lý chất thải, tái sử dụng, tái chế và sản xuất thu hồi năng lượng từ chất thải; giảm dần, tiến tới phấn đấu cơ bản năm 2025 không sử dụng đồ nhựa dùng một lần; trên 85% cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường; bảo đảm duy trì tốt chất lượng môi trường sống từ đô thị đến nông thôn, nhất là tại thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và các khu đông dân cư. Hoàn thành việc đề xuất UNESCO công nhận khu dự trữ sinh quyn thế giới tại xã Chế Tạo (huyện Mù Cang Chải), Nà Hẩu (huyện Văn Yên); đồng thời quản lý, phát huy hiệu quả gắn với phát triển du lịch sinh thái. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao khả năng phòng, chống và hạn chế tác động của thiên tai, nhất là lũ ống, lũ quét, sạt lở đất; chủ động chia sẻ thông tin, xây dựng cơ chế liên kết vùng trong ứng phó biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

8. Tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chiến lược của Đảng, Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng và bảo đảm an ninh; quan tâm bố trí nguồn lực đầu tư xây dựng căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, các công trình quốc phòng theo quy hoạch thế trận quân sự trong khu vực phòng thủ. Không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang tỉnh. Xây dựng lực lượng quân đội thường trực "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại"; lực lượng dự bị động viên vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng huy động khi có tình huống xảy ra; lực lượng dân quân, tự vệ theo hướng vững mạnh, rộng khắp. Kịp thời tham gia phòng chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, giảm nhẹ thiệt hại, khắc phục hậu quả khi có các sự cố xảy ra. Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng, trọng tâm là cán bộ chủ chốt các cấp trong hệ thống chính trị; thực hiện hiện tốt nhiệm vụ giáo dục quốc phòng toàn dân, chính sách Quân đội và hậu phương Quân đội.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự; xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị trong bảo đảm an ninh, trật tự. Nâng cao nhận thức, tinh thần cảnh giác, trách nhiệm của người dân và toàn xã hội đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự. Tập trung giải quyết các yếu tố tiềm ẩn phức tạp về an ninh, trật tự; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn hóa, tư tưởng, an ninh thông tin, sẵn sàng ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống, nhất là dịch bệnh như Covid-19. Thường xuyên mở các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, không để tội phạm lộng hành hoạt động theo kiểu "xã hội đen"; triệt xóa các tụ điểm tệ nạn xã hội, đấu tranh, phòng chống hiệu quả với các loại tội phạm, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn.

9. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế và liên kết phát triển vùng. Duy trì và làm sâu sắc thêm mối quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống với tỉnh Viêng Chăn, Xay Nha Bu Ly của Lào, tỉnh Val De Marne, thành phố Chevilly Larue của Pháp; đẩy mạnh, nâng tầm quan hệ hợp tác hữu nghị, tin cậy với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), Thành phố Mimasaka, tỉnh Okayama (Nhật Bản) và các địa phương của Hàn Quốc. Thực hiện đồng bộ hoạt động đối ngoại trên các lĩnh vực, trọng tâm là hợp tác kinh tế; nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch; đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao văn hóa, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam nói chung và tỉnh Yên Bái nói riêng. Phát huy mạnh mẽ vai trò và nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam, người Yên Bái ở nước ngoài để thu hút đầu tư, phát triển quê hương Yên Bái.

Định vị rõ tiềm năng, lợi thế của tỉnh trong vùng nhất là dịch vụ logistics, dịch vụ du lịch liên vùng, quốc tế, cung cấp nguyên vật liệu cho các khu công nghiệp, khu kinh tế lớn của vùng qua tuyến hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và các tuyến quốc lộ, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp chủ lực, lợi thế, nâng cao năng lực cạnh tranh của vùng và các tỉnh trong vùng. Thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển liên kết vùng Tây Bắc theo 02 trục chính[36]. Đưa Yên Bái trở thành một trong những trung tâm liên kết kinh tế của vùng Trung du và Miền núi phía Bắc với Thủ đô Hà Nội và vùng đồng bằng sông Hồng.

II. XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

1. Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Đề cao tự phê bình và phê bình gắn với phát huy dân chủ và tự giác của tổ chức đảng, đảng viên. Hằng năm, có kế hoạch thực hiện hiệu quả nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm khắc phục khuyết điểm, hạn chế sau kiểm điểm; tiếp tục xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm tạo sự chuyển biến thực sự mạnh mẽ, rõ nét, sức lan tỏa trong học tập và làm theo Bác. Thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành; xây dựng văn hóa trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; văn hóa, đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trong từng cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, trong mỗi cán bộ, đảng viên, làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi hoạt động của Đảng và hệ thống chính trị; kết hợp giữa tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước với giáo dục, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng hệ thống chi, đảng bộ trong tỉnh ngày càng trong sạch, vững mạnh.

2. Chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp, hình thức công tác tư tưởng; nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý kịp thời các vấn đề tư tưởng, bảo đảm thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập lý luận chính trị. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch gắn với tuyên truyền và nhân rộng gương người tốt, việc tốt; giáo dục truyền thống lịch sử, cách mạng, văn hóa, tinh thần yêu nước, khơi dậy sức mạnh văn hóa, ý chí khát vọng vươn lên trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị một cách khoa học, sáng tạo; đưa việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả.

3. Tăng cường công tác tổ chức xây dựng Đảng. Trọng tâm là tiếp tục củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là tổ chức cơ sở đảng, chi bộ. Đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp y, sinh hoạt chi bộ gắn với giải quyết hiệu quả nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương. Nâng cao chất lượng đảng viên, tích cực phát hiện, bồi dưỡng, phát huy vai trò những đảng viên ưu tú, trưởng thành trong phong trào lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang, tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị; sàng lọc, loại bỏ những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, cơ hội, tham nhũng, "lợi ích nhóm", quan liêu, yếu về năng lực, trình độ.

Tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn; rà soát, bổ sung các quy định, quy chế làm việc các cơ quan, đơn vị đã sắp xếp, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả; chủ động triển khai thực hiện các mô hình tổ chức mới theo chủ trương, định hướng của Trung ương, nhất là một số cơ quan cấp tỉnh xong trước năm 2021. Rà soát, tiếp tục sắp xếp tinh gọn đơn vị hành chính cấp xã ở một số địa phương; xác định vị trí việc làm gắn với ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong thực thi công vụ.

Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chủ chốt đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Tiếp tục hoàn thiện quy định, quy chế về công tác cán bộ, tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá, giới thiệu, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ; xây dựng chính sách đào tạo, bồi dưỡng, thu hút cán bộ thực đức, thực tài, có bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, thực sự là "công bộc của dân"; thực hiện nhất quán mục tiêu, nhiệm vụ Đề án số 11-ĐA/TU của Tỉnh ủy, tạo nguồn cán bộ trẻ, nữ, dân tộc có chất lượng lâu dài. Triển khai nghiêm túc quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; thực hiện thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp sở, phòng của tỉnh; tăng cường kiểm soát quyền lực, kiên quyết chống chạy chức, chạy quyền. Quan tâm kịp thời, đầy đủ chính sách đối với cán bộ. Làm tốt công tác bảo vệ cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ.

4. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Đổi mới phương pháp, kỹ năng, quy trình công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, tập trung vào các cơ chế, biện pháp chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, chỉ đạo, hướng dẫn của ủy ban kiểm tra cấp trên đối với cấp ủy và ủy ban kiểm tra cấp dưới trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; chú trọng kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những địa bàn, lĩnh vực, những khâu dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, nghiêm minh sai phạm. Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất giữa kiểm tra, giám sát của cấp ủy, thanh tra nhà nước và hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Thường xuyên củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ ủy ban kiểm tra các cấp có phẩm chất đạo đức, năng lực, trách nhiệm và kỹ năng thực thi nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

5. Đổi mới công tác dân vận của hệ thống chính trị, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới nội dung, phương thức công tác dân vận các cấp hiệu quả; hướng về cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe tâm tư, kịp thời giải quyết nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất là pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, xây dựng cộng đồng xã hội dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, hài hòa, văn minh. Tiếp tục thực hiện tốt phong trào thi đua "dân vận khéo", tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về công tác dân vận; xây dựng, triển khai hiệu quả cơ chế phối hợp giữa chính quyền, các cơ quan, tổ chức với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị.

Tăng cường vai trò, nòng cốt chính trị gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục nâng cao vai trò, trách nhiệm của nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; xây dựng lực lượng công nhân đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển đội ngũ doanh nhân đông đảo, có trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao; quan tâm chăm lo bồi dưỡng, giáo dục và phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của thế hệ trẻ, tạo điều kiện cho thanh niên học tập, phấn đấu, rèn luyện, trưởng thành; nâng cao trình độ và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện vai trò, trách nhiệm giới và chủ động, tích cực tham gia sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển; đồng thời là nòng cốt xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, hạnh phúc, tiến bộ; phát huy truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ" của cựu chiến binh, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, giáo dục thế hệ trẻ, đoàn kết, chung sức xây dựng quê hương.

Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực, nguồn lực to lớn phục vụ sự nghiệp phát triển và hội nhập. Quán triệt và thực hiện tốt quan điểm "dân là gốc" và phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng"; chú trọng vai trò, sự tham gia của nhân dân trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện chủ trương, cơ chế, chính sách; khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo, sự chung sức, đồng lòng của nhân dân hướng vào xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, hạnh phúc.

  6. Đẩy mạnh công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tích cực phòng ngừa, chủ động phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng. Tuyên truyền, phổ biến, tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định mới của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và toàn dân. Tăng cường kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chú trọng công tác tự kiểm tra, thanh tra, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các sai phạm, tiêu cực, tham nhũng trong nội bộ. Thực hiện hiệu quả việc thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt từ tham nhũng. Phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, báo chí trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.

Tiếp tục thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong tình hình mới; công khai, minh bạch các hoạt động tố tụng theo quy định, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc. Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp tinh gọn, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, phấn đấu không để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm ở tất cả các bước trong quy trình tố tụng. Thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong việc tiếp công dân, đối thoại trực tiếp với nhân dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

7. Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng bằng hệ thống các quy chế, quy định, quy trình, nhất là quy chế làm việc, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện, sâu sát, kịp thời, hiệu quả của cấp ủy; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, thực hiện cơ chế giao nhiệm vụ, khoán sản phẩm, khuyến khích tinh thần chủ động, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và trách nhiệm giải trình của tập thể, cá nhân người đứng đầu cấp ủy; xây dựng phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên khoa học, gần dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm, bảo đảm chủ trương, nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng.

Tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 bảo đảm chất lượng, số lượng, cơ cấu. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương; nâng cao chất lượng các kỳ họp, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, các hoạt động giám sát, nhất là giám sát chuyên đề, các cuộc tiếp xúc cử tri và hoạt động của đại biểu hội đồng nhân dân các cấp.

Tiếp tục đổi mới tư duy và cách thức quản lý nhà nước để nâng cao năng lực quản lý, điều hành của ủy ban nhân dân và trách nhiệm thi hành của các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân các cấp theo hướng đề cao kỷ luật, kỷ cương hành chính và trách nhiệm giải trình của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Hoàn thiện cơ chế, quy định về phân cấp, phân quyền công khai, minh bạch, hiệu quả, thông suốt trong điều hành và tổ chức thực hiện từ tỉnh đến cơ sở, nhất là trong quản lý cán bộ, công chức, viên chức, quản lý đầu tư, tài nguyên, đất đai, quản lý thu, chi ngân sách...

Xây dựng và thực hiện chương trình đột phá về cải cách hành chính toàn diện, đồng bộ, hướng vào cải cách chế độ công vụ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương đối với cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng và vận hành hiệu quả đề án đô thị thông minh gắn với chính quyền điện tử. Bảo đảm nâng cao hiệu quả Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh và Bộ phận phục vụ hành chính công cấp huyện, cấp xã. Phấn đấu đến năm 2025, cung cấp 100% dịch vụ hành chính công trực tuyến đạt mức độ 3 trở lên, trong đó có ít nhất 50% đạt mức độ 4; chỉ số cải cách hành chính (Par Index) thuộc nhóm 10 tỉnh, chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI), chỉ số quản trị hành chính công (Papi) thuộc nhóm 20 tỉnh dẫn đầu của cả nước[37].

Cùng với cả nước, tỉnh Yên Bái đang đứng trước những thời cơ và vận hội mới của sự phát triển, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh kêu gọi các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, đổi mới mạnh mẽ tư duy, khơi dậy ý chí khát vọng phát triển, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đề ra cho giai đoạn 2020-2025, đưa Yên Bái trở thành tỉnh khá trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

---------



[1] Gồm 14 tỉnh: Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Phú Thọ, Bắc Giang, Hòa Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên.

[2] Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm năm 2020 chiếm 4,78%.

[3] Giá trị sản phẩm thu hoạch trên 01 ha đất trồng trọt đạt trên 65 triệu đồng, tăng 15 triệu đồng/ha so với năm 2015, nhiều diện tích đạt từ 250 - 300 triệu đồng; giá trị sản phẩm thu hoạch trên 01 ha diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản bình quân đạt trên 200 triệu đồng, gấp gần 2 lần năm 2015; đàn gia súc chính tăng bình quân 2,8%/năm, sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại tăng 29% so với năm 2015, vượt 17% mục tiêu Nghị quyết.

[4] Lúa nếp Tú Lệ, Sơn Tra, Chè Shan hữu cơ, Gà đen, Lợn bản địa, Vịt bầu Lâm Thượng, Quế hữu cơ, Bưởi Đại Minh, Cam sành, Dược liệu.

[5] Giai đoạn 2016-2020 đã huy động trên 24.600 tỷ đồng để xây dựng nông thôn mới, trong đó ngân sách nhà nước chỉ chiếm khoảng 32%.

[6] Có 09 xã và 150 thôn, bản đặc biệt khó khăn; có 03 xã nông thôn mới kiểu mẫu, 11 xã nông thôn mới nâng cao.

[7] Gồm 06 tỉnh: Yên Bái, Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai.

[8] Tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo từ 75,5% năm 2015 lên 80,5% năm 2020; giảm tỷ trọng công nghiệp khai khoáng từ 9,4% xuống 7,03%.

[9] Trung tâm thương mại Vincom, Vinmart, Viettel, Thế giới di dộng, Viettinbank, Techcombank, Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội (MB), Vietcombank, Co-opbank, Prudential, Manulife, Daichilife...

[10] Tỷ lệ chi thường xuyên so với tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015 là 65,8%; ước thực hiện giai đoạn 2016-2020 là 59%; tỷ lệ chi đầu tư phát triển so với tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015 là 34,2%, tăng lên 41% trong giai đoạn 2016-2020.

[11] Toàn tỉnh có 11 chi nhánh ngân hàng loại I; 09 chi nhánh loại II và nhiều phòng giao dịch cấp xã, quỹ tín dụng nhân dân.

[12] Tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước giảm từ 43% năm 2015, còn 31% năm 2020; vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng từ 57% năm 2015, lên 69% năm 2020.

[13] Tỷ lệ tự chủ trong chi hoạt động thường xuyên của các cơ sở khám, chữa bệnh tuyến tỉnh, tuyến huyện đạt khoảng 85%.

[14] Phẫu thuật thần kinh; phẫu thuật nội soi sọ não; thay và thay lại khớp háng, khớp gối toàn phần; tán sỏi thận, tiết niệu bằng nội soi và ống mềm qua da; tiêu sợi huyết trong đột quỵ não; chụp và can thiệp mạch vành; nút mạch điều trị ung thư gan…

[15] Xếp hạng 30 di tích, toàn tỉnh có 111 di tích, tăng 37% so với năm 2015 (trong đó có 01 di tích quốc gia đặc biệt, 12 di tích quốc gia, 98 di tích cấp tỉnh).

[16] Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, cấp huyện đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối cấp tỉnh (2016- 2020); Quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2030; Quy hoạch bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên nước tỉnh Yên Bái đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; Quy định một số nội dung về công tác bảo vệ môi trường tại tỉnh Yên Bái; Kế hoạch thu gom, lưu giữ, vận chuyển để xử lý chất thải nguy hại trên địa bàn tỉnh Yên Bái…

[17] 100% số xã vùng cao có đường ô tô đến trung tâm xã; trên 70% phòng học được xây dựng kiên cố, bán kiên cố; 100% các xã có trạm xá và có điểm phục vụ bưu chính, gần 90% đồng bào được sử dụng nước hợp vệ sinh.

[18] Trong đó khoảng 20% đầu tư hạ tầng giao thông.

[19] (1) Dự án Cầu Tuần Quán; (2) Cầu Bách Lẫm kết nối Quốc lộ 37 với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai; (3) Đường nối nút giao IC12 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai với xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên; (4) Đường vành đai suối Thia kết hợp phát triển quỹ đất thị xã Nghĩa Lộ; (5) Nâng cấp, cải tạo Khu tưởng niệm Bác Hồ và di tích lịch sử văn hóa Lễ đài Sân vận động; (6) Đầu tư nâng cấp hạ tầng thành phố Yên Bái (Dự án “Chương trình đô thị miền núi phía Bắc”); (7) Đường nối quốc lộ 32C với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai; (8) Hạ tầng kỹ thuật công viên Đồng Tâm, thành phố Yên Bái; (9) Tu bổ, tôn tạo, mở rộng khu Di tích mộ Nguyễn Thái Học và các chiến sỹ hi sinh trong cuộc Khởi nghĩa Yên Bái; (10) Đường Hoa Ban và sân vận động thị xã Nghĩa Lộ; (11) Dự án chỉnh trị tổng thể khu vực Ngòi Thia, tỉnh Yên Bái; (12) Đường nối Quốc lộ 32C với đường Âu Cơ, thành phố Yên Bái; (13) Dự án cầu Cổ Phúc; (14) Dự án Đê chống ngập sông Hồng khu vực xã Giới Phiên, thành phố Yên Bái; (15) Cải tạo, nâng cấp đường tỉnh lộ 174 (Âu Lâu - Đông An); (16) Dự án đường nối Khánh Hòa (Lục Yên) - Nút giao IC12 (Văn Yên); (17) Đường Trạm Tấu - Bắc Yên; (18) Trường Phổ thông DTNT tỉnh Yên Bái.

[20] Chuyển 06 xã và 01 thị trấn của huyện Văn Chấn về thị xã Nghĩa Lộ.

[21] Số cán bộ được quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 là 51 đồng chí; số cán bộ là cấp ủy viên cấp huyện và tương đương là 12 đồng chí; số cán bộ đã được bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, tăng cường từ 01/01/2019 đến nay gồm 34 đồng chí (03 đồng chí được bổ nhiệm giữ các chức danh diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý).

[22] Trong nhiệm kỳ thành lập 19 tổ chức đảng, kết nạp được 637 đảng viên trong doanh nghiệp.

[23] Đã phát hiện sai phạm với số tiền gần 100 tỷ đồng và gần 800 ha đất.

[24] Giai đoạn 2016-2020 năng suất lao động bình quân của tỉnh đạt 5,37%/năm, thấp hơn bình quân chung cả nước (5,8%/năm).

[25] Năm 2020, dự ước Yên Bái xếp thứ 7/14 tỉnh trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc về tốc độ tăng GRDP, xếp thứ 9/14 về tổng sản phẩm GRDP trên địa bàn, xếp thứ 10/14 về GRDP bình quân đầu người.

[26] Tính trên các chỉ tiêu: Quy mô GRDP đứng thứ 07/14, GRDP bình quân đầu người đứng thứ 06/14 tỉnh, tốc độ tăng GRDP đứng thứ 07/14 tỉnh trong vùng.

[27] Nằm trong số 05 tỉnh đứng đầu trong vùng.

[28] Được tính trên kết quả khảo sát, điều tra xã hội về mức độ (tỷ lệ) hài lòng của người dân đối với 02 chỉ số cơ bản: (1) Sự hài lòng về điều kiện kinh tế - vật chất (điều kiện sống, sinh hoạt, làm việc cá nhân và công cộng…); Sự hài lòng về môi trường tự nhiên (mức độ ô nhiễm môi trường, việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên…); Sự hài lòng về quan hệ gia đình và xã hội (hạnh phúc trong các mối quan hệ gia đình, xã hội; sự hài lòng đối với hoạt động của các cơ quan công quyền, các dịch vụ xã hội, phúc lợi xã hội…); Sự hài lòng về bản thân (thu nhập, điều kiện sống…) và (2) Tuổi thọ bình quân.

[29] Trong đó duy trì, nâng cao chất lượng huyện nông thôn mới Trấn Yên và 76 xã đã đạt chuẩn nông thôn mới.

[30] Lúa nếp Tú Lệ (huyện Văn Chấn); Sơn tra (huyện Mù Cang Chải, Trạm Tấu); Chè Shan hữu cơ tại Suối Giàng, Nậm Mười, Sùng Đô (huyện Văn Chấn), Phình Hồ (huyện Trạm Tấu); Gà đen (huyện Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Yên); Lợn bản địa (huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn, Văn Yên, Lục Yên); Vịt bầu Lâm Thượng (huyện Lục Yên); Quế hữu cơ (huyện Văn Yên); Dược liệu (huyện Trấn Yên, Lục Yên, Văn Chấn, Yên Bình, Văn Yên, Mù Cang Chải, Trạm Tấu).

[31] Quế (huyện Văn Yên, Trấn Yên, Văn Chấn, Lục Yên, Yên Bình); Măng tre Bát Độ (huyện Trấn Yên, Yên Bình, Lục Yên, Văn Yên, Văn Chấn); Lúa đặc sản chất lượng cao (Thị xã Nghĩa Lộ, huyện Văn Chấn, Văn Yên, Lục Yên); Ngô (huyện Văn Yên, Lục Yên, Văn Chấn, Trấn Yên, Yên Bình); Cây ăn quả có múi (huyện Văn Chấn, Trấn Yên, Yên Bình, Văn Yên, Lục Yên); Chè đen (huyện Văn Chấn, Trấn Yên, Yên Bình); Chè xanh (huyện Văn Chấn, Trấn Yên, Yên Bình); Dâu tằm tơ (huyện Trấn Yên, Văn Yên); Vùng rau an toàn (Thành phố Yên Bái, Thị xã Nghĩa Lộ và thị trấn các huyện).

[32] CPTPP, EVFTA, RCEP….

[33] Vùng du lịch hồ Thác Bà và dọc sông Chảy (huyện Yên Bình, Lục Yên); Vùng du lịch thành phố Yên Bái và Nam Trấn Yên; Vùng du lịch Bắc Trấn Yên - Văn Yên; Vùng du lịch miền Tây (Văn Chấn, Nghĩa Lộ, Trạm Tấu, Mù Cang Chải).

[34] Khánh Hòa (Lục Yên); Hưng Khánh, Báo Đáp, Vân Hội (Trấn Yên); An Bình, Xuân Ái, An Thịnh (Văn Yên); Cảm Ân, Cảm Nhân (Yên Bình); Gia Hội, Tú Lệ, Tân Thịnh, Cát Thịnh (Văn Chấn); Púng Luông (Mù Cang Chải).

[35] Phấn đấu đến năm 2025, 100% xã vùng cao có đường bê tông đến trung tâm xã; 70% thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa. 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng bảo đảm chuẩn hóa; 100% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp; 100% đồng bào dân tộc thiểu số được xem truyền hình và nghe đài truyền thanh.

[36] (1) Tây Bắc - Đông Nam theo cao tốc Nội Bài - Lào Cai và Quốc lộ 70 nhằm giao lưu, kết nối, hợp tác phát triển với các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận. (2) Đông - Tây theo tuyến Quốc lộ 37 - Quốc lộ 18 kết nối giao lưu, hợp tác phát triển giữa khu vực Tây Bắc với khu vực Đông Bắc của vùng, từ Sơn La - Yên Bái - Tuyên Quang - Thái Nguyên - Bắc Ninh - Quảng Ninh.

 

Văn nghệ Yên Bái số mới

Đất và người Yên Bái qua ảnh

Thư viện video

Các cuộc thi Văn học nghệ thuật

Lượt truy cập

Visitor Counter