Nhà văn NGUYỄN HIỀN LƯƠNG
Ngày 22/12/1944, tại khu rừng nằm giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang và xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân- tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương Đảng ủy nhiệm tổ chức, lãnh đạo, tuyên bố thành lập Đội. Đội gồm 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm Đội trưởng, đồng chí Xích Thắng làm Chính trị viên, có chi bộ Đảng lãnh đạo. Trong 34 chiến sĩ có 15 chiến sĩ quê Cao bằng, 3 chiến sĩ quê Bắc Kạn, 2 chiến sĩ quê Quảng Bình, 2 chiến sĩ quê Thái Nguyên, 1 chiến sĩ quê Lạng Sơn, 1 chiến sĩ quê Thái Bình. Về dân tộc: 19 chiến sĩ dân tộc Tày, 8 chiến sĩ dân tộc Nùng, 5 chiến sĩ dân tộc Kinh, 1 chiến sỹ dân tộc Mông 1, 1 chiến sĩ dân tộc Dao.
Ngày 22/12/1944 được lấy làm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngay sau ngày thành lập, 17 giờ ngày 25/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt và 07 giờ sáng hôm sau (26/12) đột nhập đồn Nà Ngần (đều đóng tại châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), tiêu diệt hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính địch, thu vũ khí, quân trang, quân dụng. Chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần mở đầu cho truyền thống quyết chiến, quyết thắng của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tháng 4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Đảng quyết định hợp nhất các tổ chức vũ trang cách mạng trên cả nước và đổi tên Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành Việt Nam giải phóng quân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam giải phóng quân đổi tên thành Vệ quốc đoàn. Năm 1946 đổi thành Quân đội quốc gia Việt Nam. Từ năm 1950 mới chính thức được gọi là Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thời kỳ chống Mỹ, lực lượng võ trang của MTGPMN còn được gọi là Giải phóng quân.
Quân đội Nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945- 1954)
Cuối năm 1946, theo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước chia thành 12 chiến khu. Lúc này, ở Bắc Bộ và Trung Bộ có 30 trung đoàn và một số tiểu đoàn thuộc các chiến khu; hệ thống tổ chức đảng trong Quân đội được thành lập từ Trung ương Quân ủy đến chi bộ.
Mùa xuân năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ lên Việt Bắc, chỉ đạo cuộc kháng chiến của cả nước. Thu Đông năm 1947, thực dân Pháp huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ có máy bay, tàu chiến hỗ trợ, tiến công lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và bộ đội chủ lực của ta. Ta mở chiến dịch phản công, sau hơn hai tháng ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7.000 tên địch. Đây là chiến dịch phản công quy mô lớn đầu tiên giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta; đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn và làm phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; bảo toàn và phát triển bộ đội chủ lực, bảo vệ cơ quan đầu não và căn cứ địa của cả nước.
Sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, Quân đội ta có bước trưởng thành, song chưa có khả năng mở những chiến dịch lớn, ta chủ trương phát động chiến tranh du kích rộng khắp và thực hiện “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Từ đầu năm 1948 đến giữa năm 1950, bộ đội ta liên tiếp mở trên 20 chiến dịch nhỏ trên các chiến trường, đã tiêu diệt từng đại đội đến tiểu đoàn địch ở ngoài công sự. Từ giữa năm 1949, Bộ Tổng Tư lệnh chủ trương rút các đại đội độc lập về xây dựng các trung đoàn, đại đoàn chủ lực. Ngày 28/8/1949, thành lập Đại đoàn 308, ngày 10/3/1950, thành lập Đại đoàn 304. Tháng 6/1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới, chủ động tấn công Pháp. Sau gần một tháng (16/9- 14/10/1950), ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.000 tên địch, giải phóng khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn), căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố, phá vỡ thế bao vây, khai thông liên lạc với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, kết nối cách mạng nước ta với cách mạng thế giới. Sau chiến dịch Biên giới, các đại đoàn chủ lực tiếp tục được thành lập: Đại đoàn 312 thành lập tháng 12/1950, Đại đoàn 320 thành lập tháng 1/1951, Đại đoàn công pháo 351 thành lập tháng 3/1951, Đại đoàn 316 thành lập tháng 5/1951. Trong vòng 6 tháng (12/1950- 6/1951), ta đã liên tiếp mở ba chiến dịch mang tên: Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung. Đây là những chiến dịch quy mô lớn đầu tiên đánh vào phòng tuyến kiên cố của địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ.
Tháng 11/1951, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hoà Bình và đưa một bộ phận chủ lực vào hoạt động trong vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, đẩy mạnh chiến tranh du kích. Bộ đội ta có bước tiến bộ mới về trình độ chiến thuật, kỹ thuật, về khả năng chiến đấu liên tục dài ngày, về sự phối hợp tác chiến giữa ba thứ quân. Đầu tháng 9/1952, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Tây Bắc. Sau gần hai tháng chiến đấu (14/10 - 10/12/1952), ta đã tiêu diệt và bắt hơn 6.000 tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn ở địa bàn chiến lược quan trọng, nối thông vùng giải phóng Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào, giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của địch. Ngày 5/12/1952, tại Bình- Trị- Thiên, Đại đoàn 325 được thành lập, góp phần tăng thêm sức mạnh chiến đấu của “các quả đấm chủ lực cách mạng”. Tính đến thời điểm này, đội quân chủ lực trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh đã có 6 đại đoàn bộ binh (308, 304, 312, 320, 316, 325) và 1 đại đoàn công binh, pháo binh (351).Trước những thay đổi cục diện chiến tranh ở Đông Dương, trên cơ sở đánh giá đúng tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, tháng 9/1953, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953- 1954. Sau khi thực dân Pháp đổ quân đánh chiếm Điện Biên Phủ, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm (13/3- 7/5/1954) liên tục chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 62 máy bay; thu toàn bộ vũ khí, kho tàng, cơ sở vật chất kỹ thuật của địch ở Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn quyết định vào âm mưu xâm lược, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Chiến dịch Điện Biên Phủ là một điển hình xuất sắc, là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp; đồng thời là minh chứng cho sự phát triển vượt bậc của Quân đội ta sau 10 năm xây dựng, chiến đấu và chiến thắng vẻ vang (1944 - 1954).
Quân đội Nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
Năm 1960, ở miền Bắc, Quân đội ta đã có bước trưởng thành, đã trở thành Quân đội chính quy, ngày càng hiện đại, gồm các lực lượng: Lục quân, Hải quân, Phòng không- Không quân. Ở miền Nam, Mỹ- Diệm thực hiện chính sách khủng bố tàn bạo, gây tổn thất nặng nề cho cách mạng miền Nam. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (1/1959) nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam và vạch rõ con đường cơ bản của cách mạng miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng. Chấp hành nghị quyết của Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng đã quyết định đẩy mạnh xây dựng Quân đội. Sư đoàn 338 bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc đã được tập trung huấn luyện lên đường vào Nam chiến đấu. Ngày 19/5/1959, Đoàn 559 được thành lập với nhiệm vụ mở đường dọc dãy Trường Sơn bảo đảm cho lực lượng ta vào Nam chiến đấu và vận chuyển lương thực, súng đạn từ miền Bắc vào miền Nam. Tiếp đó, Đoàn 759 cũng được thành lập với nhiệm vụ vận chuyển, tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam theo đường biển.
Để đẩy mạnh cao trào cách mạng của quần chúng, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ngày 15/2/1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang nhân dân ở miền Nam; đây là bộ phận của Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp hoạt động trên chiến trường miền Nam. Từ năm 1961, đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Được cố vấn Mỹ chỉ huy và dựa vào hỏa lực Mỹ, ngụy quân Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân đánh phá vùng giải phóng, gom dân lập “ấp chiến lược”. Quân và dân ta đã liên tục chiến đấu, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng. Trong đó, tiêu biểu là chiến thắng Ấp Bắc (1/1963) mở đầu cho sự thất bại của chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của quân ngụy Sài Gòn.
Ngày 5/8/1964, Mỹ dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”, vu cáo Hải quân Nhân dân Việt Nam tiến công tàu khu trục Mỹ ở vùng biển quốc tế nhằm đánh lừa dư luận và lấy cớ sử dụng không quân bất ngờ mở cuộc tiến công mang tên “Mũi tên xuyên”, đánh phá vào hầu hết các căn cứ của hải quân ta trên suốt dải ven biển miền Bắc. Các đơn vị hải quân, phòng không, dân quân tự vệ của ta đã dũng cảm chiến đấu, bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương 2 chiếc khác, bắt 1 phi công.
Tháng 10/1964, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các lực lượng vũ trang miền Nam mở chiến cuộc Đông Xuân 1964- 1965, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực ngụy, mở rộng vùng giải phóng. Các chiến thắng Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ hoàn toàn bị phá sản. Từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân chiến đấu của Mỹ và đồng minh cùng khối lượng lớn phương tiện chiến tranh vào miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó, từ tháng 9 đến tháng 12/1965, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập tại chiến trường miền Nam 5 sư đoàn bộ binh (9, 3, 2, 5, 1) và Đoàn pháo binh 69 tương đương cấp sư đoàn. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân các đơn vị chủ lực Quân Giải phóng mở các cuộc tiến công, gây cho địch nhiều thiệt hại về sinh lực và phương tiện chiến tranh, buộc quân Mỹ phải chấm dứt cuộc phản công chiến lược lần thứ hai mùa khô 1966- 1967.
Tháng 1/1968, Hội nghị Trung ương lần thứ 14 thông qua Nghị quyết của Bộ Chính trị (12/1967), mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã giáng đòn quyết định vào âm mưu xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, rút dần quân về nước, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Paris. Từ năm 1969, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, sử dụng tối đa về sức mạnh quân sự, kết hợp với những thủ đoạn chính trị và ngoại giao hòng cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của ta. Trước tình hình đó, quân và dân ta đã phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến đấu của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em, giành được những thắng lợi to lớn, tiêu biểu là chiến dịch Đường 9- Nam Lào, chiến dịch Đông Bắc Campuchia. Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, ngày 6/4/1972, đế quốc Mỹ huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân mở cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc lần thứ hai với quy mô lớn, ác liệt hơn lần trước. Với tinh thần dũng cảm và cách đánh mưu trí, sáng tạo, qua 7 tháng chiến đấu quyết liệt, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 654 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 125 tàu chiến Mỹ. Trước những thất bại nặng nề, đêm 18/12/1972, đế quốc Mỹ liều lĩnh mở cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô lớn nhất mang tên “Chiến dịch Linebacker II” đánh phá miền Bắc, tập trung ồ ạt đánh phá Hà Nội, Hải Phòng bằng máy bay B52. Một lần nữa quân và dân miền Bắc đã anh dũng chiến đấu, đánh bại cuộc tập kích chiến lược của địch; bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 chiếc B-52, 5 chiếc F-111. Bị tổn thất lớn và không đạt mục đích, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và nối lại cuộc đàm phán ở Paris. Những thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam, cùng với Chiến thắng "Hà Nội- Điện Biên Phủ trên không" đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973), rút quân về nước. Tuy nhiên, ngụy quyền Sài Gòn ngang nhiên vi phạm Hiệp định, ráo riết thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Để sớm kết thúc chiến tranh, theo đề nghị của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Bộ Chính trị đã phê chuẩn việc thành lập các quân đoàn: Quân đoàn 1 thành lập tháng 10/1973, Quân đoàn 2 thành lập tháng 5/1974, Quân đoàn 4 thành lập tháng 7/1974, Quân đoàn 3 thành lập tháng 3/1975 và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn, thành lập tháng 2/1975. Trong hai năm 1973- 1974, quân và dân ta liên tiếp giành được thắng lợi quan trọng, làm cho cục diện chiến trường tiếp tục thay đổi có lợi cho ta. Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 và đầu năm 1975 đã chỉ rõ sự xuất hiện thời cơ lịch sử và nêu quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam. Ngày 4/3/1975, bộ đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Ngày 10 và 11/3/1975, quân ta tiến công giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Tiếp đó, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên. Ngày 5/3/1975, quân ta mở chiến dịch Trị Thiên- Huế, giải phóng Quảng Trị, thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên. Ngày 26/3- 29/3/1975, quân ta mở chiến dịch Đà Nẵng, giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà và thị xã Hội An, tiến tới giải phóng Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa… Từ những thắng lợi đó, Bộ Chính trị quyết định giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn được lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Tư tưởng chỉ đạo: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, ngày 26/4, quân ta hình thành thế bao vây Sài Gòn từ 5 hướng, do các Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232 và Sư đoàn 8 (Quân khu 8) đảm nhiệm. 17 giờ ngày 26/4, chiến dịch bắt đầu. Sau nhiều trận chiến đấu quyết liệt đánh chiếm vòng ngoài thắng lợi, sáng 30/4, quân ta tổng công kích vào nội thành Sài Gòn, nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu then chốt; 10 giờ 45 phút, lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 2 đánh chiếm Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn, buộc tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện. 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ của Quân Giải phóng được cắm trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Cùng thời đó, Quân chủng Hải quân cũng khẩn trương tranh thủ thời cơ, mưu trí, táo bạo, bất ngờ tiến công lần lượt giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa: Song Tử Tây (14/4), Sơn Ca (25/4), Nam Yết (27/4), Sinh Tồn (28/4), Trường Sa (29/4).
Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn nhất, giành thắng lợi to lớn nhất, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội ta cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân binh chủng; là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Quân đội Nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975- 2024)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, các đơn vị Quân đội đã phối hợp với Ủy ban quân quản các cấp, khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng cơ sở, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương. Trước hành động xâm lược của quân Pôn Pốt và đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã thực hiện cuộc phản công, tiến công mạnh mẽ, đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giải phóng thủ đô Phnôm Pênh vào ngày 07/01/1979, tiến tới giải phóng toàn bộ đất nước Campuchia. Đầu năm 1979, quân đội tiếp tục cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Cuộc chiến biên giới phía Bắc kéo dài đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX.
Từ đó đến nay, Quân đội ta tích cực đẩy mạnh công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng nền nếp chính quy; tích cực tham gia xây dựng kinh tế, xã hội, giúp dân xây dựng nông thôn mới, cứu hộ cứa nạn khi xảy ra các thiên tai.
Truyền thống vẻ vang của Quân đội Nhân dân Việt Nam
Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, Quân đội ta đã xây đắp nên truyền thống vẻ vang, được khái quát cô đọng trong lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh:“Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Truyền thống đó được thể hiện trên các mặt sau:
- Trung thành vô hạn với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
- Quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng.
- Gắn bó máu thịt với Nhân dân, quân với dân một ý chí.
- Đoàn kết nội bộ; cán bộ, chiến sĩ bình đẳng, thương yêu, giúp đỡ nhau, thống nhất ý chí và hành động.
- Kỷ luật tự giác, nghiêm minh.
- Tự lực, tự cường, cần, kiệm xây dựng Quân đội, xây dựng đất nước.
- Lối sống trong sạch, lành mạnh, có văn hóa, trung thực, khiêm tốn, giản dị, lạc quan.
- Ham học hỏi, cầu tiến bộ, ứng xử chuẩn mực.
- Đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí tình.
Sự trưởng thành, lớn mạnh, truyền thống tốt đẹp của Quân đội Nhân dân Việt Nam có được là nhờ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng, xứng đáng là một đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc nhân dân.
Sự đóng góp của các văn nghệ sĩ- chiến sĩ với VHNT Yên Bái:
Hiện hội viên Hội Liên hiệp VHNT Yên Bái có 26 văn nghệ sĩ là cựu chiến binh, qua các thời kì, chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ biên giới. Trong đó có 13 tác giả chuyên ngành văn học; 6 tác giả chuyên ngành mỹ thuật, 4 tác giả chuyên ngành nhiếp ảnh; 2 tác giả chuyên ngành sân khấu- biểu diễn, 1 tác chuyên ngành âm nhạc. Trong đó 11 văn nghệ sĩ- chiến sĩ là hội viên các Hội Chuyên ngành Trung ương, 8 hội viên Hội VHNT các DTTS Việt Nam; là lãnh đạo Hội qua các thời kỳ, gồm nhà thơ- nhạc sĩ Ngọc Bái, họa sĩ- nhạc sĩ Quánh Hùng, tác giả văn xuôi Hoàng Việt Quân, nhà văn Nguyễn Hiền Lương, tác giả thơ Nguyễn Ngọc Chấn, họa sĩ Nguyễn Đình Thi. Hiện nhiều văn nghệ sĩ- chiến sĩ vẫn đảm nhiệm Chi hội trưởng các chi hội chuyên ngành như nhà văn Hà Lâm Kỳ, nhà văn Nguyễn Hiền Lương, họa sĩ Nguyễn Đình Thi, nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Thanh Miền, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phạm Pari.
Trong những năm qua, nhiều sáng tác của các tác giả là văn nghệ sĩ- chiến sĩ đã đoạt các giải thưởng trong nước và quốc. Nhà thơ Ngọc Bái đoạt giải thưởng Nhà nước, Nhà văn Hoàng Thế Sinh đoạt giải thưởng Văn học sông Mekong, NSNA Thanh Miền đoạt giải thưởng Quốc tế về nhiếp ảnh. Các tác giả khác cũng đoạt nhiều giải thưởng VHNT của các hội chuyên ngành Trung ương, giải thưởng của Ban Tuyên giáo Trung ương, giải thưởng VHNT Yên Bái hàng năm và 5 năm, giải thưởng các cuộc thi sáng tác Trung ương, địa phương. Có thể khẳng định các văn nghệ sĩ- chiến sĩ Yên Bái luôn phát huy truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam, phẩm chất bộ đội Cụ Hồ và có nhiều đóng góp cho văn học nghệ thuật Yên Bái trong xây dựng hội và sáng tác tác phẩm; luôn đoàn kết, động viên nhau trong hoạt động VHNT và bồi dưỡng các tác giả trẻ. Hội Liên hiệp VHNT Yên Bái cũng luôn quan tâm đến đội ngũ văn nghệ sĩ- chiến sĩ, luôn tạo điều kiện cho các tác giả văn nghệ sĩ- chiến sĩ trong sáng tác và quảng bá tác phẩm; hàng năm đều tổ chức gặp mặt văn nghệ sĩ- chiến sĩ vào dịp tháng 12, kỷ niệm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, với sự có mặt của lãnh đạo Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, lãnh đạo Hội CCB tỉnh; thăm hỏi, tặng quà các văn nghệ sĩ thương- bệnh binh vào dịp 27/7. Điều đó vừa thể hiện sự tri ân với các văn nghệ sỹ một thời cầm súng bảo vệ Tổ quốc, vừa động viên các văn nghệ sĩ- chiến sĩ tích cực, tâm huyết trong sáng tác có những tác phẩm tốt và xây dựng hội ngày càng phát triển.
12/2024
N.H.L
Tin khác