Truyện ngắn của NGUYỄN THỊ THANH
Ngoài trời gió rít từng cơn. Bụi tre sau nhà vặn mình răng rắc. Ông Tở dụi mấy thanh củi đang cháy dở rồi đứng dậy, tay với bao dao treo trên vách nhà buộc ngang bụng, khoác áo mưa và đội thêm chiếc mũ bông bịt tai, bước chân ông thoăn thoắt chạy xuống cầu thang. Trời rét, dù không mưa nhưng theo thói quen ông thường khoác tấm áo mưa để vừa chắn gió, chắn sương và đỡ phải ních nhiều quần áo. Gió và rét, miệng thở ra khói nhưng ông vẫn chân đất ngược dốc lên triền núi phía Tây. Bà Tở biết tính ông, biết ông lại lo cho đàn trâu đang thả ngoài rừng, hễ trời trở gió, kể cả mưa ông cũng chạy chân đất đi lùa chúng vào lán. Vì vậy khi ông xuống đến sân bà không hỏi gì mà cũng không can ngăn. Lên sàn nhà, bà Tở vào bếp cời than nướng củ sắn để tối về ông có cái ăn ngay cho ấm bụng. Bây giờ cơm gạo chẳng thiếu gì nhưng trước khi ăn cơm bao giờ ông cũng thích ăn mẩu sắn hay bắp ngô nướng y như người nghiện, không có không chịu được. Bà Tở đã ngoài bảy mươi tuổi nhưng đôi mắt còn đẹp lắm, hàng mi cong và dài giữ cho mí mắt không bị sụp như những người già khác, bà nhai trầu thuốc nên hàm răng đen vẫn đều tăm tắp, miệng cười tươi nhưng thêm khóe môi nhuộm đỏ quết trầu ai cũng bảo bà trẻ dai. Ngồi một mình bên bếp lửa bà nghĩ về cái ngày xưa ấy...
Nhà Tở khó khăn vì bố mẹ đông con, ruộng ít, rừng ít. Nhà Bun khá hơn vì bố mẹ khỏe, khai phá được nhiều ruộng nương, trồng nhiều rừng hơn, nhưng cứ mải làm lụng nên con cái hay mắc bệnh mà chết, chỉ nuôi được hai chị em Bun đều là gái. Lên mười sáu tuổi, Bun đẹp như bông hoa rừng, da trắng, môi đỏ, tóc dài đến khoeo chân. Chiếc áo cỏm bó sát eo như tôn thêm chiều cao vốn đã cao như cây ban sắp trổ hoa khiến cho Bun lúc nào cũng nổi hơn đám con gái trong bản. Mỗi lần Bun cùng bọn nó xuống tắm và gội đầu trên dòng suối Nậm Nung là thu hút biết bao ánh nhìn, trong đó có Tở. Tở độ tuổi mười tám khỏe như con trâu xỏ sẹo đã ba năm, da đen bóng, bắp tay cuồn cuộn, mắt sáng hơn mắt con hoẵng trong đêm. Tở yêu Bun và Bun cũng thích Tở từ lúc nào không biết. Đã nhiều đêm trăng bên nhau hò hẹn, đến lúc nhà Tở nhờ bà mối đem lễ sang nhà Bun dạm hỏi. Lúc đầu mẹ Bun không muốn nhận lễ vì thương con gái về bên ấy vất vả, nhưng bố lại chủ động đặt vấn đề với bà mối. “Nhà tôi chỉ có hai con gái, tôi muốn thằng Tở về ở rể thì mối có nói cho nhà bên kia chịu không?”. “Ồ… sẽ chịu thôi! Nhà nó nhiều con trai, mà có lẽ nó chưa lo đủ sính lễ cưới con Bun về làm dâu, chắc thằng Tở phải làm lụng ở nhà gái ba năm mới đủ cưới con Bun ông à!”.
Lễ nhận dâu, nhận rể được họ hàng nhà Bun tổ chức suốt hai ngày, bố mổ trâu, mổ lợn mời bà con và họ hàng ăn cơm vui vẻ, tối đến đốt lửa nhảy xòe rộn rã. Có lúc đang ăn bỗng nghe tiếng máy bay địch ầm ầm lao tới, bà con theo phản xạ chạy tản xuống các căn hầm trú ẩn. Nam nữ thanh niên nhanh như cắt ai nấy đã cầm trên tay khẩu súng trường của đội dân quân sẵn sàng trực chiến. Về làm rể được tròn hai mươi ngày thì Tở có giấy gọi nhập ngũ. Người như thế đi khám nghĩa vụ là đủ sức khỏe ngay từ đầu thôi mà. Vậy là chồng đi bộ đội đánh giặc, Bun ở nhà gánh việc thay chồng làm nương, cày ruộng và học cái chữ để còn đọc thư của chồng gửi về, cứ thế cho đến lúc Bun biết viết thư cho chồng nữa. Bun tưởng tượng chồng vui sướng như thế nào khi nhận được tin vợ đã sinh thằng con trai đầu lòng, cả hai thống nhất đặt tên là Hoàng Văn Chiến…
Tiếng còi ô tô inh ỏi đầu ngõ, xe của bố con nhà Chiến chở vật liệu xây dựng trả hàng xong cho người ta đã về. Bà tất tưởi chạy xuống mở cổng cho xe vào. Vợ chồng nó ở riêng, làm nhà kề bên cạnh nhưng vẫn đi chung một cổng, khu đất rộng mênh mông của ông bà ngoại để lại còn làm được nhà cho thằng út ở gần bố mẹ và gần anh trai, còn cô con gái giữa đi lấy chồng bản dưới.
Trời nhập nhoạng tối, ông Tở về nhà vác theo một bó củi. Tuổi bảy lăm mà chưa chịu nghỉ việc, ông bảo còn sức khỏe mà ngồi chơi không nó yếu cái chân, mềm cái tay, lì cái đầu đấy! Làm việc vừa sức coi như tập thể dục mà vui, con cháu lại có thêm cái ăn. Bà Tở đưa cho chồng miếng sắn nướng còn nóng hổi, ông khoát tay nói với bà.
- Sang bảo vợ Chiến nó giúp mổ con gà, tý nữa tôi có khách về chơi!
Bà Tở ừ một tiếng rồi sang nhà con trai luôn. Loắng một chốc con dâu đã soạn xong mâm cơm có bát canh gà nấu gừng, đĩa chân đầu cổ cánh luộc, lòng gà xào măng chua, đĩa thịt trâu sấy, đĩa rau nộm và một rổ rau thơm các loại hái trong vườn nhà, bà Tở nhanh tay pha bát chẳm chéo đặt vào giữa mâm. Khách là ai bà Tở không cần hỏi cũng biết. Thường thì những lúc mưa rét ông hay gọi mấy người bạn cùng chiến đấu đến nhà uống rượu, chuyện con cà con kê rồi cũng quay về chuyện chiến trường, ấy thế mà không có lần nào trùng chuyện đã kể mới tài. Ngoài cổng có tiếng nói vọng vào trêu chọc nhau.
- Vợ chồng son đã tâm sự xong chưa? Ra đón các thủ trưởng nào!
- Lão chột đã mặc xong quần chưa đấy? Há há…!
Cả hai ông bà ra cửa đón bạn. Ông Tư ôm theo chai rượu. Ông Hoàng Nọi cầm theo gói xôi nếp. Họ ríu ran cười đùa như trẻ nhỏ. Ông Nọi rụng mấy chiếc răng cửa cười móm mém, bảo đi cấy răng giả mà mãi không chịu nghe. Thì cứ đi làm đi! Bọn tao cho thêm tiền làm loại răng tôn tốt ấy! Khổ, cái đồ tốn gái nên răng mới rụng sớm! Há há…! Tất cả vui cười ngồi quanh mâm cơm. Con dâu đã rót rượu nâng cho từng ông và không quên để sẵn hai chiếc chén rót mời tổ tiên. Nào! Uống! Tụi mình còn giữ được cái gáo đem về, còn được ngồi với nhau thế này là quá hạnh phúc rồi, còn mong gì hơn nữa! Thương mấy thằng hy sinh đến giờ chưa tìm thấy mà đưa về. Bố mẹ chết hết rồi nhưng con vẫn trẻ, bây giờ chắc đang chơi lang thang trên trời… Mọi người cùng lặng đi giây lát. Ông Tỏ liền lên tiếng khuấy động.
- Nào, ta uống thay mỗi đứa một chén cho chúng nó đỡ tủi thân! Hồi đó bọn mình cùng một xã nhưng mỗi người một binh chủng khác nhau. Tôi lái xe- Ông Tở nhắc tên từng người- Ông Tư đây pháo binh, Hoàng Nọi đây bộ binh, còn ông Hòa quân y bây giờ ở tận Trấn Yên theo con trai. Nghĩ đến Hoàng Chắp lính bộ binh, Lò Văn Tới thông tin, Hà Hom công binh mà thương chúng nó quá…
- Chưa thằng nào có vợ- Ông Tư ngậm ngùi nói theo.
- Đợt ấy đi lính mỗi lão Tở có vợ thôi! Tôi còn chưa yêu- Ông Tư nói tiếp- Thực ra là yêu rồi nhưng chưa dám thổ lộ, chiến tranh ác liệt như thế, các ông bảo nếu nhận lời yêu mà không trở về thì làm khổ một đời con gái à?
Ông Tở nhấp một ngụm rượu, miệng khà khen rượu ngon và thơm mùi men lá. Tay ông cầm đũa gắp miếng cánh gà chấm vào bát chẳm chéo mà cái đầu ông đang xa xăm lắm.
Tiểu đoàn lái xe nhận nhiệm vụ kéo trọng pháo vượt Trường Sơn vào Nam. Ngày ấy đường Trường Sơn bom đạn giặc cày xới suốt ngày đêm, các chuyến xe phải di chuyển trong bí mật, có lúc tranh thủ chạy từ tờ mờ sáng, có hôm đang ăn trưa lại có lệnh lên đường vì vừa ngớt một loạt bom rải thảm nên phải chớp thời gian từng giây, từng phút. Tở khua đũa và thật nhanh miếng cơm vào miệng nhai vội vã rồi nhảy lên ca bin cùng đồng đội hành quân. Cánh lính nhiều bữa đói do không kịp ăn như vậy đã quen rồi. Nghĩ đến việc ở nhà bà con cấy lúa, trồng sắn mỗi vụ đều cân cho nhà nước để phục vụ tiền tuyến, bỏ thừa mỗi hạt cơm thật tiếc nhưng việc đó các anh nuôi sẽ có phương án tận dụng. Tháng trước vợ viết thư cho biết cu Chiến lớn nhanh vì ăn cơm khỏe lắm, cả nhà ăn độn sắn hoặc ăn sắn trừ bữa, có ít gạo nào đều dành cho con hết. Tở nhớ vợ con đến cồn cào, một năm, hai năm rồi ba năm đằng đẵng chưa được về phép thăm nhà. Chiến dịch cứ liên miên hết đợt này đến đợt khác có ngơi lúc nào đâu mà về. Tở bặm môi, chân phanh, chân ga cứ thi nhau đánh vật với từng ổ gà, lúc thì vượt ngầm trong đêm tối chỉ nhờ ánh đèn pin yếu ớt của các cô giao liên và thanh niên xung phong, khi thì vừa chạy xe vừa tránh bom. Một ngày giữa trưa hè nắng gắt, lá ngụy trang héo rủ che khuất cả tầm nhìn, Tở nhảy xuống bẻ một ôm lá tươi để thay ngụy trang mới. Vừa lúc máy bay địch ào ào xuất hiện, chúng điên cuồng nhả từng loạt bom. Bằng kinh nghiệm quan sát độ nghiêng của bom rơi, chỉ huy trưởng hô to "Tất cả lùi xe lại…! Lùi nhanh….! Lùi nhanh không trúng bom đấy…!". Xe trước truyền lệnh cho xe sau, tất cả đoàn xe chồm chồm những bước lùi trên đường rừng gập ghềnh. Xe của Tở bị sập bánh xuống một rãnh sâu gần như sắp đổ nghiêng. Bỗng từ đâu một đoàn nữ thanh niên xung phong ào tới, quần áo lấm lem bụi đất, tóc bết trên từng gương mặt và những tấm lưng thon thả thoắt trở thành cọc chống bên sườn xe, tốp khác thì bẩy đá chèn rãnh rồi cùng nhau dô ta đẩy trợ lực cho xe thoát khỏi hiểm nguy. Y như rằng, phía trước đoàn xe bom đã nổ cày nát con đường huyết mạch. Vậy là đơn vị phải nằm lại chờ thông tuyến. Tở lấy giấy ra viết thư kể về chuyến hành quân đáng nhớ này. Thằng cu Chiến mai sau đi học biết chữ nó sẽ đọc và sẽ hiểu cuộc đời lính chiến của bố nó như thế đấy! Thư viết xong Tở gửi vào trạm giao liên, may quá hôm nay có lá thư từ quê nhà đã đến trạm giao liên sau một tháng trời di chuyển, lại cả tấm ảnh của hai mẹ con Bun gửi kèm mới sung sướng làm sao. Tở háo hức đọc, nước mắt cứ chảy ra vì thương vợ, thương con. Cả tiểu đội cũng xúm vào nghe đọc thư rồi chuyền nhau ngắm bức ảnh đen trắng. “Vợ thằng Tở đẹp quá! Thằng con giống bố quá! Sư cha thằng Tở con, chỉ muốn cắn vào má nó một cái thôi! Ước gì được trở về quê cưới cô vợ cũng đẹp như thế này nhỉ? Ơ… Nhưng Tở ơi! Đàn bà thường búi tóc sau gáy, đây vợ mày lại búi trên đỉnh đầu thế kia?”. “À… phong tục của dân tộc Thái nhà tao là con gái còn son thì búi tóc sau gáy, đến khi có chồng phải búi lên đỉnh đầu, gọi là "Tằng cảu", nhìn cách búi tóc là biết cô ấy có chồng hay chưa. Ai chồng bị chết thì phải búi lệch sang một bên. Tao sợ cái búi lệch lắm á! Lạy ông trời hãy giữ cho tóc vợ con đừng có đổ nghiêng nhé ông trời!”. Mọi người đều ồ lên vì đã hiểu thêm một phong tục đẹp của dân tộc. Một đồng đội trấn an, không thể nào chết, tụi mình phải sống để trở về chứ! Yên tâm đi, cái "Tằng cẩu" của vợ mày sẽ đứng vững trên đỉnh đầu! Đấy chúng mày vừa thấy đấy thôi, bom nó tránh mình mà. Một đồng đội khác lại vô tâm vỗ vai Tở. “Vợ mày đẹp thế này liệu ở nhà có thằng nào cuỗm mất thì chết”. “Ờ… dưng mà thanh niên mười tám, đôi mươi đi bộ đội hết cả rồi còn ai đâu mà cuỗm nhỉ?”. Đồng đội nói vậy thôi, chứ Tở cũng lo lắm đấy. Hồi ở nhà chính bản Nậm Na của Tở đã xảy ra chuyện mà, lúc ấy Tở mới học lớp sáu nghe bà con xôn xao gọi nhau ra sân kho hợp tác xã nghe xử phạt người vi phạm chính sách hậu phương quân đội. Người vi phạm lại chính là ông phó chủ nhiệm hợp tác xã kiêm phụ trách dân quân. Ông ấy có quan hệ với vợ bộ đội, thế là bị đem ra bêu trước mặt bà con, chính quyền xã truất cái chức phó chủ nhiệm và còn phải trả súng lại không cho làm dân quân nữa. Tở đứng vòng ngoài nghe mọi người xỉa xói cũng hùa theo "Đả đảo quân hủ hóa!", Tở có biết hủ hóa là gì đâu. Mấy bà mẹ xì xào "Ông phó chủ nhiệm với vợ thằng Ký bộ đội cùng đi tập dân quân, ông ấy lôi nó vào bụi cây định giở trò nhưng nó kêu toáng lên. Thế là bị đội dân quân vây bắt". À như thế gọi là cán bộ hủ hóa! Tiếng hô của tiểu đoàn trưởng vang lên dõng dạc "Các đồng chí!... Đã lấp xong hố bom! Tất cả chuẩn bị lên đường!". Tở gấp vội lá thư nhét vào ba lô, còn tấm ảnh thì đút trên túi áo ngực chạy ra xe. Trời đã tối. Đoàn xe lắc lư ngạo nghễ nối đuôi nhau kéo pháo vào chiến trường.
Anh em dừng chân tranh thủ ngủ để giữ sức. Ngửa mình trên ghế xe, Tở lại rút ảnh vợ con ra ngắm dưới ánh trăng lờ mờ. Tở không khóc mà sao nước mắt cứ trào ra rơi xuống miệng mặn chát. Nhớ ngày hôm đó đang chiến đấu ở cánh đồng Chum bên Lào thì nhận được thư nhà báo tin vợ đẻ và một tin sét đánh là thằng em trai vừa bị chết do bom địch thả trúng gần căn hầm trú ẩn của trường, nó bị mảnh bom phạt vào đầu, còn mấy đứa khác bị sức ép phải đưa đi cấp cứu. Nghĩ đến đây thì Tở bật khóc, khóc to đến mức đồng đội đang ngủ ở xe trước, xe sau nhảy vội xuống nhao đến hỏi làm sao mà khóc to thế? Tở khóc rú lên, ôm mặt nói "Em tao chết thảm quá mà tao không về được với nó…!". Thế là ba thằng bạn không ai kịp chợp mắt, chỉ ôm nhau khóc cho đến lúc có lệnh lên đường đi tiếp.
Máy bay địch lại gầm rú trên đầu. Tất cả được lệnh xuống xe chạy vào nơi trú ẩn. "Bịch!". Một quả bom rơi ngay bên cạnh hầm nhưng không nổ. Bom câm. Sức rơi của nó khoét thành một hố sâu, đất đá tung tóe, Tở bị mảnh đá to găm vào mắt phải, máu chảy tràn một bên mặt. Đồng đội cõng anh đưa vào trạm y tế tiền phương để sơ cứu và băng bó. Trời sáng, Tở trở lại đoàn xe, ai cũng bảo nên ở lại điều trị cho khỏe đã hãy đi, nhưng Tở cười vui và nói "Có sao đâu! Ngày nhỏ chơi đánh khăng, đánh trận giả bị quật vào đầu, vào mắt là chuyện thường!". Thằng Nam, một sinh viên đại học văn khoa rất điển trai cười hớ hớ vừa nhảy múa làm trò, vừa ngâm nga mấy câu thơ mà nó luôn cho là khẩu hiệu của lính lái xe.
Một vết thương xoàng mà đưa viện
Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nao nao ngồi đây nhớ lưng đèo.
Rồi nó quay xung quanh hỏi mọi người "Chúng mày biết thơ của ai không? Của Phạm Tiến Duật đấy! Chàng cũng là sinh viên khoa văn như tớ đấy! Cũng là lính Trường Sơn đấy! Tớ không giỏi làm thơ như hắn nhưng khoản viết thư tình thì không ai bằng tớ nhá! Hớ hớ…! Đứa nào muốn viết thư cho người yêu thì cứ nhờ đây nhá!
- Ơ kìa… Ông chủ nhà không chúc rượu à? Mặt thần ra thế?- Ông Hoàng Nọi giục ông Tở.
- Ờ, ờ… Mời! Mời đi!- Ông Tở lấy lại vẻ niềm nở- Này cho ông Tư cái phao câu. Này cho ông Nọi cái chân gà, không có răng cửa thì gặm bằng lợi để biết thế nào là bệnh ngoan cố!
Không khí thân mật trở về trong tiếng cười vui. Ông Tư lấy ngón tay trỏ gõ vào trán ông Nọi bảo:
- Mai tôi đưa ông đến hiệu làm răng sứ. Sắp kỷ niệm ngày truyền thống quân đội của cánh mình, năm nay liên hoan to đấy, nhân dịp này tôi và ông Tở tặng ông mấy chiếc răng mới. Hôm ấy gặp mặt sẽ nhiều người khen trẻ đẹp nhé! Rồi lại càng có nhiều quý bà bám theo nhé!
- Quyết luôn đi! Đây là điều lệnh của trên. Đề nghị đồng chí Nọi chấp hành nghiêm chỉnh! Ông Tở nói chắc nịch và lôi ông Nọi đứng dậy giơ tay chào nhận lệnh theo phong cách quân đội.
Ông Tư trầm ngâm giây lát rồi vào chuyện.
- Nhớ hồi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, trời xui đất khiến thế nào mà cả ba thằng mình được gặp nhau vui quá nhỉ?
Xe của Tở đang lao như tên giữa làn mưa đạn thì nghe tiếng kêu "Á…" phía sau. Một đồng chí pháo thủ bị thương vào cánh tay. Không do dự, Tở nhảy xuống mắm răng quay nòng pháo trực tiếp về phía quân địch. "Một quả này! Hai quả này! Ba quả này… Cho chúng mày tan xác này!....". Tở giật liền tám quả thủ pháo. Nào là đạn bắn, nào là pháo công kích khiến quân địch bỏ chạy tán loạn không dám phản công. Đoàn quân dốc tổng lực tiến vào Buôn Ma Thuột nhưng ác thay, chúng đã dồn dân ra chặn đường quân giải phóng, lấy dân làm lá chắn cho chúng. Trước mắt Tở là hình ảnh những đứa trẻ khóc ngặt nghẽo trên tay mẹ vì sợ hãi, nhiều phụ nữ và người già trúng đạn nằm chết la liệt trên đường. Vừa dọn xác đồng bào cho đoàn xe tiến lên Tở vừa đưa bàn tay sạm thuốc súng lên lau nước mắt. Hình ảnh của vợ và con lại hiện về. Nếu một trong những người phụ nữ nằm đây là vợ mình, nếu những trẻ vô tội kia là con mình thì sao đây? Em trai mình có tội tình gì mà bị bom Mỹ giết chết? Máu như sôi lên, Tở quỳ gối, ngửa mặt lên trời hét thật to "Chúng mày sẽ phải đền tội...! Tao sẽ đánh lũ chúng mày tan tành trong nháy mắt để tao về với vợ tao...! Về với con tao...!". Vết thương trên mắt phải nhói đau, Tở úp hai tay vào mặt khóc. Một đồng đội chạy tới đỡ Tở dậy. “Ô... Thằng Tở Nậm Na!”. “Ôi... Xuân Tư Bản Vạn! Mày cũng đi trận này à? Thế mày cũng vào trận này à?”. Hai người bạn đồng hương ôm nhau nhảy cẫng lên vui sướng. Xuân Tư cất giọng khàn khàn chế bài "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây" mặc cho đồng đội giục đi nhanh lên. Tở cũng khoác vai Tư hòa theo "Đường ra trận mùa này đẹp lắm... và hôm nay... chúng mình lại bên nhau....".
Cả sư đoàn hiệp đồng tác chiến đã nhanh chóng giải phóng Buôn Ma Thuột và tiến đánh vào sân bay Hòa Bình. Xe tăng của ta và bộ binh thừa thắng xông lên làm chủ hoàn toàn cứ điểm. Dõi mắt nhìn xa, bỗng Tở chạy tới kéo tay Tư reo lên "Trông ai như thằng Nọi ở Nghĩa An đang đứng khua mũ trên nóc xe tăng kìa!". Khum bàn tay che ánh nắng, Tư nheo mắt nhìn xa và cũng reo to "Đúng thằng Nọi rồi! Ôi sung sướng quá Tở ơi! Không ngờ tụi mình lại được nhìn thấy nhau trong giờ khắc này". Cả hai đồng đội vừa chạy tới vừa gọi người đồng đội cùng quê, họ quấn lấy nhau hỏi han đủ chuyện, nói cho nhau biết tình hình quê nhà được kể trong thư mới nhận.
Ông Nọi khẽ đặt đũa xuống mâm chậm rãi nói:
- Trận ấy tí nữa thì tôi đi tong. Khi trung đoàn bộ binh tiến vào, bọn địch tuy rút lui nhưng còn một tốp vẫn cố thủ, nó xả đạn bắn tung cái mũ cối trên đầu tôi. Sợ không? Tôi một tay ôm súng, một tay ôm đầu thì viên đạn khác lại tiu trúng bả vai. Nhưng lúc ấy chả biết đau là gì. Vừa nghe thấy tiếng loa báo tin quân ta đã làm chủ hoàn toàn, khoái quá tôi liền giật cái mũ của thằng bạn nhảy lên nóc xe tăng như các ông đã thấy đấy!
Ông Tư nhanh tay rót rượu vào ba cái chén và đưa cho từng người.
- Nào, ta lại cạn đi. Một lần nữa ăn mừng, một lần nữa ơn trời, ơn tổ tiên đã cho mình trở về.
Ông Nọi quay sang hỏi ông Tở mà không trách móc như mọi lần.
- Giở giời mắt phải vẫn đau à?
Ông Tở trầm ngâm một lúc mới nói:
- Đau thì vẫn đau nhưng giờ bên phải mù hẳn rồi! Cả làng gọi tôi là ông Tở chột khéo sắp phải gọi là thằng Tở mù thôi quá!
Ông Tư chép miệng:
- Ông ương bỏ xừ ra. Người ta làm chế độ thương binh ầm ầm, thậm chí chẳng bị thương bị theo gì mà vẫn chạy được thương binh. Đây lại không chịu làm chế độ!
- Các ông biết rồi đấy, tôi chỉ bị mảnh đá nó bay vào chứ có phải mảnh bom mảnh đạn đâu. Làm chế độ thương binh ngại chết đi được. Thôi! Tôi đã bảo cắt câu chuyện này đi mà. Qua cái tuổi xưa nay hiếm mà được sống với vợ con như này là quá đủ rồi. Nào, các ông gắp đi chứ, thức ăn còn nguyên thế kia?
Ngoài cổng có tiếng gọi:
- Bác chột có nhà khống đấy? Cháu bên công an xã đây!
Bà Tở chống hai tay vào đầu gối đứng dậy và đi xuống mở cổng. Anh Lâm Trưởng công an xã thấy có khách liền lên tiếng trước.
- Dạ, chào các ông! Cháu xin lỗi vì quen miệng gọi bác Tở như vậy ạ!
- Không sao! Bọn tôi cũng gọi như thế, mà cả bản, cả xã này đều quen với tên gọi đó rồi.
- Vâng đúng ạ! Lâu nay cứ nói đến cái tên Tở chột là nhiều người kính nể, mà cái bọn thanh niên nghịch ngợm, bọn trộm cắp hễ nghe tên ông là chúng vẫn gờm. Hôm nay bên công an lại có việc đến nhờ bác giúp đây ạ!
Ông Tở kéo tay Lâm cùng ngồi vào mâm, bà Tở đã nhanh tay sắp một chiếc bát, một đôi đũa, một chén rượu cho khách. Ông Tở gãi tai cười nói:
- Tuổi già như chổi cùn dựng cửa rồi cháu ơi! Còn tác dụng gì nữa đâu!
- Ồ... Vậy mà cây chổi cùn này vẫn chắc nịch nhé, vẫn quét mà còn quét rác sạch hơn cả chổi mới đấy. Thôn bản này mà không có bác Tở giúp đỡ là gay!
Ngoài cổng lại có tiếng gọi. Thầy hiệu trưởng trường Tiểu học soi đèn pin tự mở cánh cổng bà Tở chỉ cài gá, thầy bước lên sàn xin gặp ông Tở. Mọi người chào nhau và lại thêm một bát, một đôi đũa, một chén rượu trên mâm. Thầy đặt vấn đề mời ông Tở đến nói chuyện chiến đấu cho các cháu học sinh nghe trong buổi sinh hoạt truyền thống sắp tới. Ông Tở bảo năm nào tôi cũng đến kể chuyện cho các cháu rồi, năm nay đề nghị thầy giáo cho cả ông Nọi và ông Tư cùng đến, mỗi người một câu chuyện mới hay, mới phong phú.
Cuộc rượu mãi mười giờ đêm mới tàn. Ông Tở mời hai đồng đội ngủ lại nhà nhưng cả ông Tư và ông Nọi đều từ chối. Mọi khi mải vui quá chén thì ở lại nớ! Hôm nay vui nhưng không say phải về với bà nó thôi! Trăng cuối tháng mờ chiếu, những tàu lá chuối và vệ cỏ bên đường đã phủ đầy sương. Bốn vị khách tự dưng khoác vai nhau ra cổng giả vờ cảnh say rượu đang khệnh khạng dìu nhau trên đường. Tiếng cười của họ như phá tan màn sương và nghe ấm áp đến nao lòng.
N. T. T
(Viết tặng nguyên mẫu Hoàng Văn T - Thôn Nậm Đông)
Tin khác