Truyện ngắn Nông Quang Khiêm- nội lực và đa dạng

     Tiến sĩ Thu Huyền

(Viện Văn học Việt Nam)

 

Nhà văn Nông Quang Khiêm là tác giả trẻ có trong tay một vốn hành trang đầy đặn, các tập sách thuộc nhiều thể loại và những giải thưởng ghi nhận sự nỗ lực. Tính đến nay, tròn 20 năm cầm bút, nếu như thơ Nông Quang Khiêm tạo được chất giọng riêng, những tứ hay, hình ảnh có sức ám gợi; thì văn xuôi của anh ghi dấu ấn đậm nét hơn với những sáng tác khá tập trung liền mạch, thể hiện được nội lực và đa dạng trong lựa chọn.

Nhà văn: Nông Quang Khiêm

Câu chuyện về đời thường

Truyện ngắn Nông Quang Khiêm chủ yếu khai thác những số phận con người dung dị, vô danh ở miền núi, quanh quẩn với mưu sinh, có lúc rối bời trong những mối quan hệ chằng chịt. Hầu hết những cốt truyện đều không có nhiều tình tiết éo le hay cảnh huống dữ dội; cái bình thường, cái tưởng như vụn vặt lại có sức ám ảnh và khơi gợi được sự đồng cảm nơi người đọc.

Trong giai đoạn đầu sáng tác, với thơ, và bứt phá bằng truyện ngắn ở chặng sau này, cùng chung một nguồn cảm hứng, những trang viết của Nông Quang Khiêm đôi khi có những triết lý và ngẫm ngợi sâu, những ý nghĩa được truyền tải kín đáo qua những câu chuyện về đời sống thường ngày, tình gia đình, bè bạn và cả những mối quan hệ xã hội phức tạp.

Câu chuyện được Khiêm kể trong truyện ngắn là những chuyện ngày thường. Chẳng hạn, Tiếng hú trên đỉnh Pù Cải là một lát cắt nhỏ mà sắc về cuộc đời chìm nổi của những số phận bất hạnh. Trong tình tiết của truyện, không có những xung đột lớn, không cao trào, số phận những con người vá víu vào nhau bị hòa tan trong vô vàn cái vặt vãnh đời thường. Nhân vật Sìn với ngoại hình xấu xí, đổi đời nhờ được đền bù từ công ty khai thác quặng. Xao đã một đời chồng do không sinh được con. Họ lấy nhau, rồi gia đình Xao Sìn tán gia bại sản do ôm lô đề thất bại. Xao đi làm lụng nuôi chồng, suýt bị lừa bán qua biên giới. Xao ôm nỗi đau tủi nhục về dãy núi Pù Cải và ngồi hoá đá. Sìn tìm thấy Xao và hú lên ghê rợn. Tiếng hú đêm đêm như tiếng vượn hoang vọng về... Trong Hai lần gặp gỡ, tình cảm của những con người xa lạ đem đến cái nhìn đôn hậu, ấm áp. Cuộc gặp đầu tiên nhen lên niềm vui khi cậu sinh viên nhận một đứa em nhỏ làm anh em. Trái ngược lại là cuộc gặp sau đó vài năm, đứa bé đã trở thành kẻ móc túi, cái tên Thảo Ly cũng đổi thành Hương Sen với sự thay đổi hoàn toàn cả ngoại hình. Kết thúc truyện là sự quyết tâm của người anh trai cứu đứa em khốn khổ khỏi lầm lỗi.

Khi nói đến đặc trưng thể loại, Daniel Grojnowski cho rằng, truyện ngắn du hành nhẹ nhàng, điều ấy không có nghĩa là ngắn. Nó dùng ít từ hơn, đó là một đường tắt tới trái tim; và rằng, truyện ngắn gợi ra, để lại những khoảng trắng, khoảng lề mà người đọc tùy ý lấp đầy. Ngược với sự hâm mộ đối với những sự kiện gây sửng sốt, sự kiện thường ngày- những thứ nhỏ nhặt vô nghĩa của đời sống “lại cho phép truyện ngắn làm bất tử cái tầm thường”. Mùa suối lũ là những trang viết giản dị mà sâu sắc về tình cảm con người. Trò nghịch bồng bột của hai anh em khi làm thơ để đuổi khéo ông đào giếng. Sự vô tình học lỏm nghề xăm ba ba của đứa em... những sự kiện được kể một cách duyên dáng và có chiều sâu trong lựa chọn chi tiết. Lòng tốt của con người với nhau không cần tuyên ngôn mà thấm thía qua những đối đãi mộc mạc thường ngày, qua ứng xử và cách nghĩ của bố mẹ Khủ khi giúp đỡ ông Xù đào giếng. Vẫn những câu chuyện ở bản Lồ, ở Nẻo về, Tu yêu Nhình nhưng bị ngăn cấm vì nhà nghèo. Thạ nhân cơ hội chiếm đoạt Nhình. Mẹ Nhình nói: “làm đàn bà, trời đặt vào đâu cũng là phận đàn bà thôi” nghe đầy xa xót cho thấy cái nhìn về phận đàn bà cam chịu... “Phận đàn bà” ở bản Lồ như được tiên đoán qua cách nói của mẹ chồng Nhình khi tỉnh khi điên. Sau khoảng thời gian yêu chiều ngắn ngủi là những ngày tủi nhục của Nhình khi bị đánh, làm lụng vất vả... như cái bóng không hồn, chỉ còn sự xót xa cho người mẹ chồng điên dại. Sau này lên huyện làm tranh đá quý thì gặp lại Tu, cự tuyệt tình cảm bấy lâu Tu vẫn một lòng, Nhình quyết tâm về vực lại gia đình đang tan nát, cai nghiện cho Nhạ…

Cái nhìn bao dung trong tình yêu

Nếu những chuyện thường ngày mang đến cái nhìn nhân văn mộc mạc, thì ở đề tài tình yêu, Nông Quang Khiêm khai thác chủ yếu ở sự vị tha, bao dung. Nhân vật tôi trong Đường quê kể lại câu chuyện tình yêu đầu đời của mình, cái ngày 19 tuổi, những buổi chăn dê cùng Sa trên đồi. Mặc cảm về gia cảnh bố nát rượu, mẹ thành “bà nải” với sự nhẫn nhịn đến tội nghiệp, chàng thanh niên ấy bỏ thi đại học bởi sự nghèo khó đeo đuổi, tình yêu đầu đời cũng vì thế mà bị cấm cản. Sau những năm học xa nhà, ký ức về đồi hoa chó đẻ vẫn chưa thôi day dứt, Sa lập gia đình và sống cuộc đời lùi lũi với sự ghen tuông vô cớ của người chồng. Truyện ám ảnh bởi những chi tiết như chiếc vòng bạc hứa hẹn giữa hai người, đứa cháu 3 tuổi chết và bị cắn đứt ngón út do thầy tào Pú tin rằng có Ma Slay. “Đường quê” như một ý niệm, cũng chính là con đường của những ký ức xa xót, của tình yêu dang dở và của tuổi trẻ nhiều nỗi buồn. Cũng như khi lựa chọn một địa điểm, một không gian, tác giả chính là đã lựa chọn thu nhỏ thế giới của nhân vật bằng những địa điểm có tính chất biểu tượng. Hình ảnh đồi hoa chó đẻ cô đặc và dồn nén, bởi nó đánh dấu một sự khởi đầu, cũng là điểm kết thúc của tình yêu.

Edgar Poe đồng nghĩa truyện ngắn với một bức tranh, Todorov ví von tiểu thuyết là một chuyến đi dài, còn truyện ngắn là leo lên một quả đồi để mang lại một cái nhìn từ trên cao. Bởi thế, những hiệu ứng mà truyện ngắn mang lại luôn được chú ý đặc biệt. Có thể thấy, không gian trong truyện ngắn của Nông Quang Khiêm mang đến những hiệu ứng đó, dù hầu hết là những sự quen thuộc, có lúc lặp đi lặp lại, tái tạo một đời sống vùng cao bình dị, đôi lúc vượt thoát ra khỏi khuôn khổ ấy - một thành thị được gợi đến với sự mơ hồ, không ý nghĩa. Nàng hươngGió cuốn mây ngàn có sự gặp gỡ đôi chút ở bối cảnh câu chuyện, tuy đi theo hai mạch triển khai khác nhau nhưng cùng đem lại một ý nghĩa. Nàng hương kể về Dung, lên Yên Lai dạy học, sau 5 năm muốn chuyển về xuôi nên đã chấp nhận đánh đổi với trưởng phòng giáo dục huyện. Éng yêu Dung, đã chờ đợi 5 năm và muốn Dung làm nàng hương trong lễ cúng vía cho mẹ mình. Khi chuyện vỡ lở, mọi người biết nàng hương không còn trinh tiết, Dung xấu hổ và tự tử, lúc này tình yêu của Éng đủ lớn để đứng ra nhận mọi lỗi lầm về mình. Trong khi đó, Gió cuốn mây ngàn khắc họa tình yêu của Dìn và Mây vượt lên định kiến của hai bản Luông và Mấy. Nhưng khi đi học xa nhà thì những cám dỗ cuộc sống thành phố kéo Mây đi không biết điểm dừng. Sau Mây lấy Đẩu, trả lễ cho Dìn. Kết thúc quen thuộc bằng motif là bao dung những lỗi lầm, tuy khác đi là Dìn với lương tâm một người thầy thuốc (chứ không phải vì tình yêu đã có với Mây) đã lên núi Ngàng lấy thuốc mà không biết rằng Mây đã mắc căn bệnh quái ác không thuốc chữa. Truyện ấn tượng bởi ngôn ngữ đậm tính mộc mạc, với lối ví von và liên tưởng của người ở bản tuy cách kể, việc lựa chọn sự kiện còn khá vụn, tản mát nên thiếu hấp dẫn.

Chi tiết sáng và giọng điệu riêng

Ở những câu chuyện về đời thường, và cả những câu chuyện tình yêu, cách viết của Nông Quang Khiêm luôn thiên về những chi tiết: Mánh khoé cao tay của tên trộm xi măng, Loòng cũng vì ăn trộm mà mắc bẫy và một mình chịu nhục trong Chuyện ở bản Lồ có cách kể lôi cuốn, ngôn từ dung dị và những chi tiết gọn ghẽ, điều thường thấy ở truyện ngắn của Khiêm. Trong truyện ngắn của Nông Quang Khiêm, cốt truyện thường không nhiều cao trào, số phận nhân vật cũng không đưa đẩy qua những thăng trầm, thậm chí nhiều truyện mang hơi hướng của những tản văn hoặc ghi chép. Ngày cuối năm là những háo hức của Chít về một cái Tết ở quê, nơi có bà nội ngóng chờ mòn mỏi, cứ dần dần bị hẫng hụt. Bố bận trực, mẹ sa ngã theo sự cám dỗ vật chất… tất cả hiện lên qua giọng kể của một đứa trẻ, với những trường đoạn về tập tục tết quê.

Nếu như thơ thiếu nhi của Nông Quang Khiêm trong trẻo với thế giới tuổi thơ mộc mạc, tươi sáng (gian của bà nơi chập chững những bước đầu đời, bù nhìn cả đời áo rách thương bản ta còn khó, tiếng rao gợi nhớ gánh rau của mẹ, chiếc gùi trên lưng còng…) thì truyện ngắn của Khiêm vẻ như già dặn hơn, cái nhìn dù sâu sắc, nhiều ngẫm ngợi và từng trải, nhưng dường như tất cả được kể bằng giọng bình thản, hiền lành và có phần “nữ tính”. Đa phần giọng kể của Khiêm buồn và thiên về gợi xúc cảm từ những hình ảnh đẹp. Trong Đường quê, tình yêu dang dở được “hô ứng” bởi những chi tiết của thiên nhiên ngoại cảnh: “Mùa mưa. Mưa quê tôi kéo dài lê thê, buồn hoang hoải. Tôi lùa dê lên đồi, cùng Sa nấp dưới một tảng đá lớn, nhìn mưa tí tách rơi”; rồi cũng nơi hai người từng gắn bó và sau này xa nhau: “Tôi đợi mãi ở tảng đá cạnh gốc cây nóng, nơi tôi vẫn ngồi cùng Sa. Trăng tàn về cuối dãy núi Ngàng, sương xuống ướt đẫm, tôi vẫn đợi như thế. Mấy đêm liền Sa không ra…”. Độc giả dễ dàng bắt gặp trong truyện ngắn của Khiêm cách miêu tả thiên nhiên gắn với biến cố và tâm trạng con người: nét xinh sâu kín của Sa, gió thôi se sắt khi ềm Lùng và Éng tha thứ cho Dung, buổi chiều thông thốc gió khi Pu đưa tay ra trước lỗi lầm của Nải… Một điểm thường thấy nữa là câu chuyện luôn khép lại bằng một dư âm buồn, thậm chí có những sự kiện tưởng như rất mơ hồ, chỉ có thể cắt nghĩa bằng cảm giác. Không cầu viện đến những tình huống éo le, gay cấn; sự dồn nén của những chi tiết nhỏ, số lượng nhân vật ít ỏi… lại khiến cho một vài truyện ngắn của Khiêm có sức hút kỳ lạ. Gió qua Éc Vài kể về nhân vật Nải bán ngô trên đỉnh Éc Vài, quen biết rồi bị Ben lợi dụng bán qua biên giới. Cuối tác phẩm, Nải trốn về và nhận được sự bao dung của Pu. Pu cũng vì cảm thấy thua kém tiền bạc với Ben, nghe trách móc của Nải mà lên núi đào đá quý, bị thọt chân sau lần đào được viên ruby nhưng bỏ chạy với ý đồ chiếm hữu…  Truyện lôi cuốn được người đọc nhưng cách kể chuyện theo trật tự tuyến tính với mục đích tái hiện và mô tả kỹ biến cố, sự kiện và chi tiết, cộng với kết thúc còn hơi khiên cưỡng khi Pu gặp Nải với nắm lá ngón trên tay… cho thấy đôi lúc Khiêm chưa thật sự dụng công trong kĩ thuật viết.

Trải qua một chặng đường sáng tác khá dài, định hình phong cách đã có những nét riêng nhiều triển vọng, Nông Quang Khiêm đã chứng tỏ được nội lực và sức bền của ngòi bút. Với thể loại đa màu, đa hình hài như truyện ngắn, Nông Quang Khiêm cho thấy khả năng kể chuyện và khơi gợi: có khi từ những sự kiện không thật quan trọng, có khi từ một số phận đơn lẻ, Nông Quang Khiêm lựa chọn hình thức kể đơn giản mà vẫn tạo được những thông điệp ngầm ẩn và nhiều dư âm… Việc xác lập được một chất giọng riêng, cùng với những khéo léo trong tiếp cận đề tài, hành trình sáng tác tiếp theo của Khiêm sẽ còn hứa hẹn nhiều bứt phá đa dạng hơn.

 

T.H

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter