Ký của QUANG VĂN
Một thời tan hoang
Nậm Ngập nay thuộc tổ 8, trị trấn Yên Thế, huyện Lục Yên. “Nậm” tiếng Tày có nghĩa là nước. “Nậm ngập” là nước ngập. Vùng đất Nậm Ngập được bao bọc bởi những dãy núi đá cao, hiểm trở, rừng nguyên sinh bạt ngàn, là nơi sinh sôi của muôn loài, với rất nhiều cây cổ thụ quý hiếm như lý, sến, táu, gù hương và nhiều loài động vật như hươu, nai, khỉ… Giữa Nậm Ngập là một vùng đất bằng phẳng, với con suối lớn, nước trong xanh ầm ào chảy quanh năm, ngọn suối đổ vào hang đá rồi mất hút. Nậm Ngập như một thảo nguyên trên đỉnh núi cao mờ sương thơ mộng, hơn cả một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Bỗng một ngày, cuối thập niên tám mươi, đầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, vùng đất nên thơ, bình yên ấy bị đánh thức bởi những công ty khai thác đá quý của nước ngoài. Trong khoảng 10 năm, từ 1989 đến 1999, những công ty khai thác đá quý của nước ngoài, đặc biệt là Thái Lan, đã tận dụng công nghệ hiện đại khai thác triệt để nguồn tài nguyên đá quý. Họ sử dụng mìn nổ để phá đá, máy múc san gạt, máy sàng để đãi đá quý. Người tới đâu cây cối bị chặt hạ, đất đá bị xới tung đến đó. Cùng với An Phú, Minh Tiến… Nậm Ngập trở thành đại công trường khai thác đá quý. Khi nguồn tài nguyên đá quý cạn kiệt, các công ty rút đi, bỏ lại những cánh rừng trơ trụi, những con suối cạn nước, những hố sâu lởm chởm và một bãi đá lổn nhổn, tan hoang như vừa trải qua một trận bom tàn khốc. Nhưng câu chuyện khai thác đá quý chưa dừng ở đó. Khi các doanh nghiệp nước ngoài rời đi, những người dân nghèo khó từ khắp nơi lại tiếp tục kéo đến, hy vọng tìm được chút tàn dư là những viên đá đỏ còn sót lại. Một đồn mười, mười đồn trăm, tin đồn người nọ, người kia đào được đá đỏ, bán được hàng trăm triệu, rồi hàng tỉ lan đi như cơn bão, khiến dòng người kéo nhau lên Nậm Ngập ngày một đông. Hàng trăm, hàng nghìn người đổ xô lên Nậm Ngập tìm bới giấc mơ đổi đời. Tiếng cuốc, xẻng, tiếng búa, xà beng, tiếng máy múc và tiếng mìn lại náo động cả một vùng. Đá quý tiền trăm triệu, tiền tỉ không thấy đâu, chỉ sái với sỉ, bán chẳng được bao nhiêu tiền, hy vọng đổi đời không thành, chán nản, dòng người khai thác đá quý dần bỏ về. Hơn chục năm bị cày xới, rừng mất, đất đai kiệt quệ, Nậm Ngập trở thành một bãi đất đá hoang tàn, với những hố sâu ngập đầy nước. Có lẽ cái tên Nậm Ngập ra đời từ đó…
Vượt lên gian khó
Trên đống hoang tàn của Nậm Ngập sau cơn lốc đá quý, có những con người lại tìm đến, ở lại, họ vẫn là những người nông dân nghèo khó quanh thị trấn Yên Thế và một số xã bên cạnh như Khánh Thiện, Tân Lĩnh… Họ đến Nậm Ngập với một ước mơ thay đổi cuộc đời, nhưng không phải là đá đỏ, mà là miền tin thay đổi vùng đất này bằng ý chí và sức lao động. Và họ chặt cây dựng lán, bắt đầu một hành trình đầy gian khổ để tái sinh vùng Nậm Ngập. Những người đầu tiên đến Nậm Ngập không có gì ngoài đôi bàn tay và sự bền bỉ. Họ không có máy móc hiện đại, chỉ có cuốc, xẻng và những con trâu cần mẫn. Họ san gạt từng hố sâu, nhặt, lấp từng hòn đá, cải tạo đất để gieo những hạt mầm đầu tiên. Anh Hoàng Văn Sóng, dân tộc Tày, quê xã Khánh Thiện, Lục Yên, một trong những người tiên phong đến Nậm Ngập từ năm 1991 nhớ lại: “Chúng tôi cùng nhau lên đây khai hoang, tất cả có bảy hộ, là các hộ Hà Xuân Lập, Bùi Viết Tại, Tăng Xuân Lượng, Tăng Văn Đàm, Hoàng Văn Nhuân. Mọi thứ lúc đầu đều khó khăn. San lấp chủ yếu bằng tay và người khiêng, thỉnh thoảng mới dùng đến sức trâu, bởi đá to, đá nhỏ lổn nhổn. San gạt xong lại phải tạo màu, tạo chất hữu cơ, cải tạo đất bạc màu. Vất vả nhưng chúng tôi không từ bỏ. Khó nữa là không có điện, đêm về cả nhà chỉ có một cái đèn dầu leo lét, sống như người nguyên thuỷ. Không có điện đồng nghĩa không có ti vi, không biết thông tin, không có tủ lạnh, không để được thức ăn, chúng tôi chủ yếu dự trữ đồ khô để ăn dần…”. Giọng anh Sóng chợt chùng xuống: “Thương nhất là các con. Không có đường, đi lại phải leo bộ đường núi dốc trơn. Con nhỏ bố mẹ đưa đi học dưới chân núi thì mất nửa buổi đưa đi, nửa buổi đón về, hết cả thời gian làm việc; con lớn tự đi học thì leo dốc thở không ra hơi, mặt đỏ găng, quần áo ướt sũng vì sương núi, những hôm mưa trượt ngã, bẩn như trâu đằm. Thương con đành phải gửi con ở với ông bà nội, ngoại dưới núi, thứ bảy, chủ nhật bố, mẹ mới đón con lên Nậm Ngập chơi cho đỡ nhớ. Hơn mười năm sống trong cảnh đèn dầu, đến năm 2008, hoàn cảnh bớt khó khăn, các hộ gia đình chúng tôi bàn nhau góp tiền dựng cột, kéo điện. Kéo điện xong lại góp công san gạt làm đường; làm xong đường đất lại góp tiền, góp công đổ đường bê tông, mỗi năm làm một đoạn, cứ thế vì không có nhiều tiền…”. Sau những hộ dân đầu tiên lên Nậm Ngập như hộ anh Hoàng Văn Sóng, Hà Xuân Lập, Bùi Viết Tại, Tăng Xuân Lượng, Tăng Văn Đàm, Hoàng Văn Nhuân, Nguyễn Văn Chiến, Hoàng Văn Tuân… có thêm nhiều hộ dân khác đến lập nghiệp. Anh Hoàng Văn Sới lên Nậm Ngập từ năm 1991, kể: “Hai vợ chồng chỉ xách theo con dao, cái cuốc, cái nồi, một ít vật dụng sinh hoạt, thế là đi. Lúc đi, anh em họ hàng ai cũng can ngăn, nói rằng ở nơi rừng hoang ấy đã biết bao phận người nghèo khó thêm, chỉ có đá với đá thì trồng gì, ăn gì. Nhưng vợ chồng tôi vẫn quyết tâm đi, dựng lán, cải tạo đất, trồng ngô, trồng sắn. Mỗi tuần chúng tôi xuống núi một lần để lấy gạo và mua thức ăn. Chủ yếu mua đồ khô như cá khô, cá mắm, có lúc mang về cất không cẩn thận, chuột tha hết thức ăn lên rừng, đành ăn rau rừng không. Có những đêm đèn hết dầu, con ốm, cõng con vượt đường rừng xuống núi đến bệnh viện, con lịm đi trên tay, nhớ mãi. Những lúc như thế cũng muốn bỏ về quê, nhưng tiếc công khai phá đất nên vợ chồng tôi lại động viên nhau ở lại…”. Các hộ dân ở Nậm Ngập ban đầu trồng sắn, ngô, lúa, những cây sớm cho thu hoạch, dễ sống, giúp cải tạo đất. Với phương châm lấy ngắn nuôi dài, các hộ dân đã mạnh dạn thử nghiệm nhiều loại cây có giá trị kinh tế. Các hộ bắt đầu trồng cam, quýt, quế, phật thủ… những cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn, nhưng không ít lần họ gặp thất bại. Cây trồng bị sâu bệnh, thời tiết khắc nghiệt, thương lái ép giá, không có đầu ra… Anh Hoàng Văn Tuân tâm sự: “Năm 1999 tôi bắt đầu trồng cam. Tôi sang tận vùng cam Hà Giang để tìm giống cam sành về trồng. Vì chưa có kinh nghiệm, nên cam trồng bị sâu bệnh, chết rất nhiều. Những cây cho thu hoạch thì chất lượng kém, giá bán không cao nên không có thu nhập. Có những lúc tưởng giấc mơ sẽ mãi dang dở…”. Anh Nguyễn Văn Chiến, kể: “Mình bắt đầu lên đây khai hoang từ năm 1997. Ban đầu cải tạo trồng được 3ha nhãn với vải. Sau năm năm, rồi bảy năm vất vả chăm sóc và hy vọng, chẳng hiểu sao nhãn và vải không ra quả, làm việc không công gần mười năm, đến năm 2007 mình gạt nước mắt, chặt bỏ tất cả để chuyển sang trồng cam. Lại gần bảy năm nữa lặn lội đi các nơi tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ kỹ thuật chọn giống, cách trồng đến chăm sóc cây…”. Không chịu buông tay, các hộ dân ở Nậm Ngập đã đi khắp nơi để học hỏi, tìm kiếm giống cây phù hợp, cải tiến kỹ thuật canh tác, quyết chí thực hiện ước mơ của mình…
Hồi sinh
Từ một vùng đất bị vắt kiệt sức sống, bỏ hoang sau cơn sốt đá quý, Nậm Ngập giờ đây đã trỗi dậy, hồi sinh mạnh mẽ từ ý chí, bàn tay lao động của những người dân nghèo đi tìm cuộc sống mới. Hiện nay khu vực Nậm Ngập có 40 hộ dân sinh sống. Bằng sự mạnh dạn trong cách nghĩ, cách làm của các hộ dân, Nậm Ngập đã trở thành một trong những khu vực kinh tế trọng điểm trồng cây ăn quả tại thị trấn Lục Yên. Anh Hoàng Văn Sóng tâm sự: “Trước năm 1995, người dân chưa được giao đất chính thức, điều này khiến các hộ dân e ngại đầu tư lâu dài. Sau năm 1995, chính quyền thị trấn Lục Yên đã thực hiện chủ trương giao đất cho các hộ dân theo quy định của Nhà nước, giúp các hộ dân yên tâm canh tác, mạnh dạn vay vốn, áp dụng kỹ thuật mới, đầu tư quy mô lớn hơn. Chính sách giao đất, rồi hỗ trợ vốn như một làn gió mới thổi bùng hơn khát vọng làm giàu…”. Đảng bộ và chính quyền thị trấn Lục Yên đã có những chính sách quan trọng nhằm hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn, khôi phục sản xuất và phát triển vùng cây ăn quả một cách bền vững. Bà Đỗ Thị Thanh Thủy, Phó Chủ tịch UBND thị trấn Lục Yên cho biết: “Nhận biết được việc phát triển vùng cây ăn quả đòi hỏi vốn đầu tư lớn để cải tạo đất, mua giống cây, phân bón và áp dụng kỹ thuật chăm sóc hiện đại, chính quyền địa phương đã phối hợp với các tổ chức tín dụng như Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận nguồn vốn ưu đãi để đầu tư vào vườn cam, quýt, phật thủ và các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Ngoài việc hỗ trợ vốn, chính quyền thị trấn Lục Yên còn chú trọng và phân công cán bộ đến hướng dẫn kỹ thuật canh tác cho người dân. Các lớp tập huấn về kỹ thuật trồng, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh cho cây ăn quả được tổ chức thường xuyên, với sự tham gia của các cán bộ nông nghiệp, nhờ đó, người dân Nậm Ngập đã dần tiếp cận được các phương pháp canh tác hiện đại, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm…”. Tiếp theo đó, để đảm bảo đầu ra ổn định, chính quyền thị trấn đã tích cực kết nối với các thương lái, doanh nghiệp thu mua nông sản trong và ngoài tỉnh. Nhờ đó, cam, quýt, phật thủ… của Nậm Ngập không chỉ tiêu thụ tại địa phương mà còn xuất đi nhiều thị trường khác, mang lại thu nhập ổn định cho người dân. Có thể nói, sự hỗ trợ từ Đảng bộ và chính quyền thị trấn Lục Yên đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình hồi sinh và phát triển vùng cây ăn quả ở Nậm Ngập. Từ hai bàn tay trắng, nay các hộ dân ở Nậm Ngập đều là các chủ trang trại từ 3ha đến trên 10ha diện tích trồng cây ăn quả có múi, chủ yếu là cam sành, quýt sen, quýt ngọt, quýt vỏ giòn, phật thủ… cho thu nhập trên 300 triệu đồng một vụ. Bên cạnh đó, các hộ dân còn trồng tre măng bát độ, quế, phát triển chăn nuôi, đào ao thả cá, nhận khoanh nuôi bảo vệ, phát triển rừng... Hiện nay, diện tích măng bát độ và măng mai đã lên tới 50 ha, ước tính mỗi năm cho thu hoạch khoảng 50 tấn măng tươi, thu nhập trên 2 tỷ đồng. Về diện tích quế, nếu khai thác kiểu cuốn chiếu thì nhiều hộ cũng được khoảng hơn 100 triệu đồng một hộ, một năm. Giờ đây, đến Nậm Ngập, phóng tầm mắt, đâu đâu cũng thấy một màu xanh của những cánh rừng tái sinh và đồi cam vàng óng, lúc lỉu quả đang chờ thương lái thu mua, xuất đi khắp nơi. Con đường đất dốc trơn trượt ngày nào đã đổ bê tông sạch, đẹp vắt qua các dãy núi cao, rồi trườn về thung lũng Nậm Ngập bằng phẳng. Những chiếc xe của các thương lái nối đuôi nhau lên Nập Ngập. Tiếng nói cười của những người dân thu hoạch cam râm ran cả một vùng. Những sọt cam, quýt vàng óng được chuyển lên xe. Càng vào sâu, lại càng choáng ngợp bởi những vườn cam bạt ngàn. Từ một vùng đất hoang tàn, Nậm Ngập đã vươn lên thành một miền quê trù phú. Đó là một minh chứng cho sức mạnh và ý chí của con người trước thiên nhiên và nghịch cảnh. Và câu chuyện về những con người nông dân nhỏ bé ở Nậm Ngập, những người khai sinh Nậm Ngập lần thứ hai sẽ còn tiếp tục, như một bài ca ngân lên giữa non ngàn và không bao giờ kết thúc.
Q.V