Từ những cuộc trao đổi chuyên môn

(Nhân gặp gỡ Trại sáng tác Văn học Trẻ Yên Bái 2023)

PGS.TS. Nhà NCPB VĂN GIÁ

 

Một số cây bút trẻ mới bước vào nghề viết thường băn khoăn nhiều về việc viết cái gì, tìm kiếm đề tài, chủ đề gì để viết? Băn khoăn này rất cần thiết. Bởi vì viết cái gì là hết sức quan trọng.   

Tôi thường hay nghe một số bạn trẻ nói là cần phải viết về cái tôi của chính mình, với một khát vọng được là mình, chứ không phải giống người khác, theo người khác... Điều này cũng có thể xem là đúng một phần. Khi viết, có lẽ cần bắt đầu từ cái cảm, cái nghĩ, từ những trải nghiệm vui buồn và khát vọng của chính mình. Nó cho phép những cái viết của mình sẽ chân thành hơn, sâu sắc hơn. Nếu ngay từ đầu đã vội viết về những cái ngoài mình, không phải của mình sẽ rất khó có khả năng sâu sắc và thành thực được. Nên bắt đầu đi từ chính cuộc sống của mình, sống sâu sắc với chính mình sẽ bắt gặp cộng đồng. Có thể viết về những câu chuyện trong ngôi nhà của mình, trong lớp học của mình, trong thế giới bạn bè, người thân của mình. Cũng có thể lắng nghe, nắm bắt và thể hiện thật sâu sắc, tinh tế những chuyển động nội tâm của chính mình: một nỗi nhớ, một âu lo, một tiếng reo vui, một quan sát thiên nhiên, ngoại cảnh… Điều này phải tập phát hiện, nắm bắt và miêu tả. Rất giống với bài học đầu đời của một họa sĩ trẻ: phải ngồi hàng giờ để nhìn ngắm và nhận biết cho được sự biến đổi màu sắc của một chiếc lá từ khi bình minh tới tận lúc ban trưa, hoặc màu của ngọn núi phía xa thay đổi theo bước đi của thời gian trong ngày… Chỉ có như thế, khi dụng công vẽ tranh, người họa sĩ mới thể hiện lên “toile” chính xác đường nét, hình khối, màu sắc của chúng được.

Tuy nhiên, cần nghĩ thêm một chút. Mỗi cái tôi cá nhân không bao giờ là một ốc đảo khép kín, mà bao giờ cũng cộng thông với nhân quần, với cuộc sống xung quanh. Chỉ cần một việc tăng giá xăng thôi cũng đã liên quan đến túi tiền của mỗi chúng ta, đến việc đi chợ và bữa ăn hàng ngày của mỗi chúng ta. Đặc biệt, những chính sách xã hội, những thiên tai địch họa… thường liên quan mật thiết tới sinh mệnh của mỗi cá nhân. Cho nên giữa cá nhân và xã hội bao giờ cũng trong mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời. Một người viết văn nói riêng, làm nghệ thuật nói chung phải biết đặt mình vào trong cộng đồng, vừa biết cảm thông vừa thấy trách nhiệm của mình trong đó. Nếu ai dửng dưng trước một cánh rừng bị cháy, chắc chắn không thể làm văn chương nghệ thuật được. Văn chương nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là tiếng nói cảm thông đối với cuộc đời, nó ngược lại với sự vô cảm, lạnh lẽo. Người nghệ sĩ chỉ nghĩ/viết về cái tôi không thôi sẽ trở nên nông cạn và ích kỷ. Song nếu họ chỉ viết về cái cộng đồng, cái tha nhân mà quên đi mối liên hệ sâu xa với cái tôi thì cũng lại dễ sa vào những chuyện “Đao to búa lớn”, “Đại ngôn tráng ngữ” viển vông.

Đề tài có mặt vô kể trong thực tại đời sống. Đề tài cũng có trong chính mỗi người cầm bút. Quan trọng nhất đối với người viết là tìm ra được những mối liên hệ giữa cái tôi cá nhân của mình và thực tại xã hội để cất lời. 

2. Đã đành là viết văn phải rất cần cảm xúc, ý tưởng, sự độc đáo. Nhưng tất cả những điều đó chỉ có ý nghĩa khi người viết có khả năng biểu đạt chúng ra thành hình tượng nghệ thuật, tạo nên một chỉnh thể tác phẩm sống động bằng nghệ thuật ngôn từ. Chính vì thế, người viết rất cần phải hiểu và làm chủ được các thủ pháp, các ngón nghề, các mẹo mực, y như người thợ kim hoàn vậy.

Trước nhất phải nắm được đặc trưng cơ bản nhất của mỗi thể loại. Trong cách hình dung phổ biến ngày hôm nay, người ta chia văn chương ra làm 2 loại lớn: văn chương hư cấu (fiction) và văn chương phi hư cấu (non-fiction). Những thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản sân khấu thuộc loại văn chương hư cấu. Các loại ký như ký sự, bút ký, phóng sự, hồi ký, nhật ký, tùy bút, tản văn chính là văn chương phi hư cấu. Cả hai loại này bình đẳng và có giá trị như nhau. Không nên cho rằng ký là kém hay thấp hơn tiểu thuyết. Tùy bút Nguyễn Tuân, bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, hồi ký Tô Hoài không thua kém bất cứ tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ của chính các nhà văn đó và của các tác giả khác. Quan trọng nhất là cả hai loại văn chương này phải được viết hết sức bút, phải hay, có giá trị.

Mỗi người cầm bút phải nắm được một cách cơ bản nhất những đặc trưng và theo đó là sự khác nhau giữa hai loại văn chương này. Văn học hư cấu là văn học phản ánh/biểu đạt đời sống bằng hình tượng nghệ thuật, do nhà văn tưởng tượng mà thành thông qua nhân vật, bối cảnh xã hội và thiên nhiên, nội thất (không gian và thời gian mà nhân vật sống trong đó)… Ở văn học hư cấu, không nên đòi hỏi các nhà văn viết như thật, tức là viết giống với thực tế ngoài cuộc đời. Thế giới được miêu tả trong các tác phẩm hư cấu này chính là thế giới được kiến tạo của riêng nhà văn, không giống với bất cứ ai. Ngược lại, ở văn học phi hư cấu, nhà văn chỉ việc “ghi chép” có chọn lọc thực tiễn cuộc sống bên ngoài, có kết hợp với quan niệm, cảm xúc riêng của người viết; tiêu chuẩn của loại văn học này là phải phản ánh trung thành bức tranh đời sống, không được phép “tưởng tượng”, “bịa” ra. Gần đây, tác giả Phan Thúy Hà đã xuất bản hàng loạt các tác phẩm văn học phi hư cấu, ở dạng văn học tư liệu, ghi chép về những sự kiện to lớn đã từng xảy ra trong quá khứ: công cuộc cải cách ruộng đất, cuộc chiến tranh chống Mỹ (Đừng kể tên tôi, Tôi là con gái của cha tôi, Gia đình…). Cách làm của chị là đi tìm gặp các nhân chứng còn sống của các sự kiện đó để phỏng vấn, trò chuyện, ghi lại những thông tin, rồi dựng thành những câu chuyện về/của lịch sử. Các tác phẩm của chị chính là những mảnh ghép lịch sử nhỏ trong quá khứ của dân tộc, những “vi lịch sử” dễ bị bỏ quên.

            Sau khi đã nắm được một cách khái quát về hai loại văn học kể trên, cần tiến tới tìm hiểu đi sâu vào đặc trưng của mỗi thể loại. Đối với truyện ngắn, tiểu thuyết, phải nắm được các vấn đề trong cấu trúc thể loại như đề tài, kết cấu, nhân vật, nghệ thuật kể chuyện, chi tiết, giọng điệu, ngôn ngữ… Đối với thơ phải biết các dạng/ kiểu thơ, thể thơ, nhân vật trữ tình, mạch trữ tình, hình ảnh, chi tiết, ngôn ngữ… Nắm vững được các đặc trưng thể loại để không bị mắc những lỗi sơ đẳng, chưa sạch nước cản. Thí dụ, làm thơ lục bát mà thất vận là hỏng. Vần là khuôn mẫu kinh điển. Đến lượt mỗi nhà thơ phải tuân thủ quy luật của vần. Cái sáng tạo của những người làm lục bát chỉ là tạo nhịp, tạo đối, taọ điệp… để làm nên tính nhạc của câu/bài thơ. Hay trong truyện ngắn chẳng hạn, vấn đề cách thức trần thuật là vô cùng quan trọng. Chọn ngôi/ vai kể là tôi hay ngôi thứ ba, điểm nhìn trần thuật, lười trần thuật… là cả một lựa chọn, tính toán của mỗi nhà văn. Cho nên, đối với những người viết trẻ, điều tối quan trọng là phải tìm cách trang bị các tri thức thể loại, các công việc bếp núc lắm khi rất tỉ mẩn của người sáng tạo.

            3. Xin nói thêm điểm cuối cùng về việc lao động ngôn từ trong sáng tạo văn học. Cái nghề viết văn chỉ có mỗi một phương tiện duy nhất trong tay đó là chữ, tức là ngôn từ. Từ xưa tới nay, Đông Tây kim cổ, hễ là nhà văn không một ai dám xem thường chữ; ngược lại cả đời họ đi học chữ trong nhân dân, trau dồi ngôn ngữ sao cho giầu có, tinh tế, độc đáo.

Trong mỗi tác phẩm văn học, ngoài lớp ngôn ngữ đại trà ai cũng sử dụng, mỗi người cầm bút phải có được một “hệ lời” (ngôn từ) độc đáo khác nhau, mang giá trị biểu đạt nghĩa, biểu đạt cảm xúc một cách chính xác, tinh tế. Nhà văn Tô Hoài, một bậc thầy về chữ nghĩa có nhiều ví dụ sống động trong cách trau dồi và sử dụng ngôn từ. Các bậc thầy khác như Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, sau là Đỗ Chu, Hoàng Phủ Ngọc Tường… đều là những bậc thầy về lao động chữ nghĩa. Văn của “Nỗi buồn chiến tranh” (Bảo Ninh) góp phần quan trọng làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

            Ngôn ngữ trong văn chương là ngôn ngữ hình tượng, mang tính hình ảnh, cảm xúc, tinh tế nhờ vừa biết chọn lọc, vừa biết sử dụng các phép tu từ linh hoạt hiệu quả như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, thậm xưng, nói giảm, nói tránh, nói lái, nói mỉa, nói nước đôi… Điều này phải chịu khó học, chịu khó đọc mới có được. Khi nhà thơ Phạm Công Trứ viết: “Đường làng bề bộn rơm phơi/ Trong rơm lẫn cả tiếng cười trẻ con”, thì chữ “lẫn” là một chữ xuất thần. Nhà thơ Phạm Tiến Duật có câu thơ: “Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng/ Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay” thì không chỉ hay về ý tứ mà còn hay ở từng chữ.

            Cần phải nói thế này, do văn chương sử dụng ngôn ngữ hình tượng, nên nó rất kiêng những chữ mang tính khái niệm, những chữ của lối văn hành chính, sự vụ, báo chí. Nó cũng kiêng với những chữ được cho là cũ, lười, mòn, sáo (rỗng), hoặc nông, hoặc bị lặp lại… Tất cả những chữ kiểu này đã bị trơ về nghĩa. Người viết văn phải luôn luôn làm mới những chữ đã có bằng cách kết hợp, đưa nó vào những cấu trúc mới. Người viết cũng lại phải có khả năng đẻ ra chữ mới. Điều này rất khó, nhưng là một thử thách và vẫy gọi đối với người sáng tạo.

                                                            ***

Mấy điều chia sẻ trên đây không có gì mới, bất cứ ai yêu văn chương, chịu khó đọc đều thấy. Tuy nhiên, trong vai một người chia sẻ kinh nghiệm với các bạn viết trẻ, tôi xin gợi ra một số những vấn đề trên để tất cả chúng ta cùng nghĩ.

Tôi cho rằng, nếu giữ được niềm đam mê viết, lại không ngừng tự rèn, chắc chắn mỗi chúng ta sẽ được đền bù bằng những tác phẩm sáng giá do chính mình sáng tạo và cống hiến.

V.G

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter