THẾ QUYNH
Bạn đọc biết nhiều đến tác giả Dương Soái kể từ khi bài thơ “Gửi em ở cuối sông Hồng” ra đời năm 1979 với lời thơ ấm tình mà cháy đỏ chiến công “Thì em yêu ở cuối sông Hồng/ Nếu gặp dòng sông ngầu lên sắc đỏ/ Là niềm thương anh gửi về em đó/ Qua màu nước sông Hồng, em hiểu chiến chiến công anh”. Bài thơ ngay sau đó được cố nhạc sĩ Thuận Yến phổ nhạc và một số ca sĩ thành danh đã chọn trong chương trình biểu diễn của mình. Cũng từ đó anh lần lượt xuất bản 3 tập thơ: “Đất lạ”- năm 1991; “Gửi em ở cuối sông Hồng”- năm 1998 và gần đây là tập “Giao mùa”. Bốn mươi ba bài, tập hợp tản mạn những bài thơ viết từ thập niên bảy mươi của thế kỷ trước đến nay cho ta thấy sự chuyển biến sâu sắc về nội dung và hình thức trong hành trình thơ. Nghĩ về thơ, Dương Soái viết: “Chẳng bao giờ tôi muốn/ thơ tôi như chiếc kèn đồng/ nếu bất ngờ thơ được người yêu mến/ thì đấy là điệu vần của thanh âm” (Nói hộ vần thơ). Khiêm tốn vậy song vì những bài thơ được viết từ cảm xúc chân thực, mang hơi thở cuộc sống nên nó có sự hấp dẫn riêng. Có thể chia những bài thơ trong tập thành 2 thời kỳ: trước và sau năm 1985.
Trước năm 1985, cảm xúc chủ đạo của thơ Dương Soái là ca ngợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương Hoàng Liên Sơn; ca ngợi cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, bảo vệ biên giới phía Bắc và bước đầu gắn với công cuộc đổi mới của đất nước. Đây cũng nằm trong xu thế chung của văn chương thời đại lúc bấy giờ. Sáng tác của anh hướng về quê hương thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam với làng Lỗ “Ôi cái tên đã nặng nề: Làng Lỗ/ tiếng gọi làng nghe hun hút tầm sâu” và sông Châu “Ngã ba của lời hẹn ước/ Ngày về hiểu hết lòng nhau/ Dù sông chia ba hướng nước/ Ai lòng riêng một trước sau” (Ngã ba sông Châu). Đặc biệt mảnh đất Hoàng Liên Sơn (tên chung của hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái khi sáp nhập) nơi anh sống và công tác đã có sự cuốn hút bước chân tuổi trẻ. Ở đây cũng đang hừng hực khí thế công trường “Đất nước dựng xây/ đồi quê hương vươn mình hăm hở”. Những con người mới với “Cô gái nông trường đôi tay như mê/ Lùa trong lá xanh hái búp về kịp lứa”; người thầy thuốc trong bệnh viện hay bao con người bình dị khác “Anh đội trưởng một tay đi coi nước, lội đồng/ Đồng chí bí thư sâu sát từng công việc”. Nhất là những chiến sĩ đứng vững trên trận tuyến chống quân xâm lược bảo vệ quê hương: “Đánh thắng bọn giặc này, chiến sĩ ta vụt lớn/ Hóa Phù Đổng thiên thần trên đất ải Lê Hoa”. (Sắt thép trên đỉnh pháo đài)
Bước vào thời kỳ đổi mới, thơ Dương Soái có sự chuyển hướng nhạy bén hơn. Suy nghĩ về cuộc sống, về thời đại được gửi gắm vào thơ qua những hiện tượng nho nhỏ như “Tiếng chim trong rừng phố”, “Đặc sản nhà quê’, “Gốc khế bạn xưa” đến “Xem chèo’, “Cảm nghĩ phòng tranh” hay “Góp ý”… Anh băn khoăn trước vấn nạn phá rừng, hủy hoại môi trường “đồi đỏ lói như rừng chảy máu/ chim trốn biệt tăm, nai hoẵng hết đường về” và “khát thèm như ngây dại” “đi tìm tiếng chim trong rừng phố”; trăn trở bởi nghịch lý thời công nghiệp “người nhà quê quen dùng đồ công nghiệp/ người công nghiệp phố phường ưa đặc sản nhà quê”. Và đôi lúc ưu tư trước bất công xã hội, phai nhạt tình người khi bất chợt xem tích chèo cổ Lý Thông cướp công Thạch Sanh “Ai giết chăn, chém đại bàng/ Có công phải mượn tiếng đàn gửi trao”; hay gặp lại “Gốc khế bạn xưa”:
Phố quen, nhà lạ thay chủ khác
Cây khế bạn yêu họ chặt rồi
Nảy xuân, gốc cũ chồi ngơ ngác
Đọt mầm chua thoảng nỗi bạn… ôi!
Càng từng trải, kinh nghiệm sống cũng đem lại cho anh cái nhìn sâu sắc về nghề nghiệp, con người và về Đảng. Đối với con người, không phải như tờ lịch bóc “phận ngày hoặc mỏng tang trên tờ giấy xỉn/ hoặc kềnh cang hình hài với vô số lời răn”. Cái làm nên giá trị, tầm vóc phải là phẩm chất trí tuệ và sự cống hiến“giá tuổi tên làm nên từ dư thừa cao rộng/ hay lãng quên do túng thiếu bần hàn/thì cuốn lịch kia đâu dễ bóc/ thì móc treo nào đỡ nổi thời gian”. Còn về Đảng, sự “góp ý” chân thành của một đảng viên, một văn nghệ sĩ phải chăng cũng là ý nguyện của Nhân dân trước mỗi kỳ đại hội, nhằm xây dựng Đảng ta ngày càng vững mạnh và trong sáng, “là đạo đức, là văn minh”. Ở vai trò người trong cuộc, Dương Soái không quên lịch sử vẻ vang với sự cống hiến của các thế hệ “Bao anh hùng lứa tuổi thiếu niên/ Chưa đảng viên đã hiến trọn mình cho Đảng/ Những lão thành lòng trong, mắt sáng/ Vẫn một lòng trung với Đảng, sống vì Dân”. Thế nên, thật có lý khi nhà thơ đưa ra nhận xét khá độc đáo về cách tính tuổi Đảng bằng cộng thêm tuổi của những người trẻ tuổi đã sớm hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho Nhân dân:
Tuổi Đảng là tuổi Tám mươi Xuân
Cống hiến hy sinh: tuổi chấp hành, thường vụ
Chi bộ xin cộng thêm tuổi những người mãi trẻ
Cho đảng viên tuổi liền mạch thắm hồng!
(Góp ý)
Trong tập thơ, cái riêng tư cũng được tác giả chú ý thể hiện đa dạng: niềm vui mẹ già được nhìn thấy ánh sáng sau khi làm phẫu thuật mắt, lời ru con ngọt ngào bà mẹ trẻ, vẻ đẹp mặn mà con gái nơi suối tắm, bâng khuâng lúc giao mùa, tình yêu lứa đôi. Những tình cảm đó luôn hồn nhiên, trong sáng, theo thời gian ngày càng đằm thắm, trầm tĩnh hơn “Và anh nữa chắc là thu chớm nửa/ Mà tình em như đang độ chín muồi/ Thời gian cứ biếc màu thu tiếc nuối/ Tóc anh thì lấm tấm tuyết sương rơi” (Chớm nửa mùa thu).
Gắn với nghiệp thơ, nhà thơ xác định “Xin cho thơ tôi chung thủy trước sau/ như trái tim giữ cho đời nhịp sống/ đừng trách thơ tôi vì sao nhiều khát vọng/ vì sao cháy bỏng tình đời/ bởi cuộc đời thơ chỉ có một mà thôi”. Và cứ thế “điệu vần của thanh âm” đã có sự thăng hoa. Nếu như buổi ban đầu tứ thơ còn dàn trải, nhiều bài sa vào diễn ca thì sau này thơ đã cô đọng, hàm xúc hơn để có những “Ngòi Thia”, “Thành phố nơi tôi sống”… làm tiền đề cho trường ca. Cái mạnh của thơ Dương Soái là ngôn ngữ gần gũi cuộc sống, không cầu kỳ bóng bẩy mà rất gợi, giàu tính triết lý:
Ô hay tuổi ngỡ giờ đi chậm
Đông còn vớt đuổi rắc lây phây
(Phố Bàng)
Hoặc:
Vậy mà người cứ ngầm ngóng mơ mê
Ngày tháng đến, ngày tháng đi, ngày tháng…
Cái đã có chắc gì còn ló rạng
Cái đang cầm đâu hẳn chỉ cầm qua
(Giao mùa)
Tuân thủ phương châm sáng tạo đã đặt ra, tiếng lòng của tác giả “Gửi em ở cuối sông Hồng” sẽ luôn luôn “là khúc cao trào cuốn người đi giết giặc” khi Tổ quốc bị xâm lăng; “là tiếng lúa rì rào, là nét riêng xóm mạc/ là êm đềm câu hát những dòng sông” để thơ anh ngày càng được bạn đọc yêu mến. Cũng nhân dịp giao mùa “Đông qua Xuân đến”, xin được cùng tác giả nhẩm lại bài thơ “Trang báo mùa xuân” viết trên chốt bảo vệ biên giới để mừng xuân đất nước; để mà tự tin khi bước vào kỉ nguyên vươn mình của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Chợt quanh mình bát ngát mùa xuân/ Cả rừng đào nở bừng cùng báo Tết/ Chưa kịp bánh chưng… thì cứ luộc/ Nhẩm thơ Xuân đã ấm lòng mình”.
T.Q
Tin khác