Cô Minh, con gái họa sĩ Trần Lưu Hậu, từng đứng bán tranh ở gallery số 7 Hàng Khay năm xưa…trong một lần trò chuyện với tôi, cô bảo: “Không có tranh đẹp hay tranh xấu chú ạ, chỉ có tranh bán được hay không bán được mà thôi”. Rồi cô viện dẫn, cửa hàng này có bức tranh họa sĩ nào vào gallery đều khen đẹp, mà để hàng năm nay chẳng ma nào hỏi. Mới đây có bức tranh gửi sáng, chiều bán luôn. Vậy mà mấy họa sĩ ghé qua đều chê nó xấu điên xấu đảo! Vậy chú bảo sao?
Đấy là một góc nhìn thương mại về tranh của một người nhiều năm đứng bán hàng với kinh nghiệm trực tiếp, không phải là không đáng nghĩ. Một góc nhìn khá thú vị mà người không tham gia vào thị trường bán tranh thì không bao giờ biết. Và biết rồi thì cũng khó mà hiểu nổi.
Bán tranh tại nhà cũng thế. Có những bức thấy chưa ổn, tác giả định giấu, nhưng người mua lại lôi ra chọn lấy được. Chẳng biết thế nào?
Hồi tôi sang Pháp triển lãm tại Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại quận 13 ở Paris, Pháp; anh Tích Kì một Việt kiều gốc Hà Nội mua bức tranh “Chùa Bích Động” của tôi. Anh bảo, đây không phải bức đẹp nhất trong số tranh chú có ở đây. Tôi chọn nó vì mái ngói chùa chú vẽ khéo quá. Tôi mua nó để mỗi lần nhìn mái ngói chùa thấy đỡ nhớ quê hương.
ĐỖ ĐỨC – Mẹ. 60x41cm. Tác phẩm đã được bán với giá 2,4 cây vàng (1200 USD) năm 1996
Năm 1993, bức tranh phơi thổ cẩm của tôi được một khách hàng Mỹ mua. Trước đó, chị chăm chú hàng giờ xem bức màu bột “Mùa xuân sinh sôi” theo phong cách bán trừu tượng của tôi; tưởng sẽ mua, vậy mà sau chị lại chọn tranh phơi thổ cẩm. Chị bảo tranh phong cách bán trừu tượng đẹp, hấp dẫn, nhưng tôi không hiểu. Tôi chỉ mua những bức tranh hiểu được thôi, dù có thể nó chưa thật đẹp.
Cũng triển lãm 1993 tại Nhà triển lãm 16 Ngô Quyền Hà Nội, một bà khách Mỹ đến chọn mua một bức, rồi bà hẹn hôm sau sẽ đem theo phiên dịch để tìm hiểu thêm. Hôm sau đến bà chỉ một loạt tranh và được nghe tôi tôi giải thích kĩ từng bức. Bà ấy vui lắm mua thêm bảy bức. Năm ấy toàn tranh giấy.
Một luật sư người Pháp mua bức tranh “Tan vỡ” của tôi. Bức đó vẽ người đàn bà địu con cầm ô đang bước đi, đằng sau trên nền đen thẫm, có ba dải màu trên rèm ri- đô cửa buồng xô lệch để ẩn ý về sự tan vỡ. Luật sư thích, mua 3 trăm đô Mỹ – tương đương hơn 6 chỉ vàng. Hôm sau, ông quay lại phong tranh trò chuyện, rất hào hứng với bức tranh ông vừa làm chủ sở hữu. Nhưng rồi ông nhún vai: “Đắt quá”. Tôi bảo: “Thưa ông, tiền tranh ông mua vẫn còn đây, nếu không hài lòng thì ông có thể đem tranh trả, tôi sẽ hoàn lại tiền”. Lúc ấy ông cười ” không đâu, trả lại thì tôi không ngủ được. Tôi thích tranh đó mà. Nghĩ ba ngày mới mua đấy. Hóa ra ông đã vào triển lãm trước đó mấy ngày mà tôi không biết”.
Cũng triển lãm này, có một ông đứng tuổi có lẽ là cỡ giám đốc một công ty, đưa một khách nước ngoài đứng tuổi, hỏi mua bức tranh dó “Thiếu nữ Thái”. Tranh để giá 250 đô Mỹ. Ông ấy bảo: “150 đô được không?”. Tôi chưa kịp trả lời thì ông đế thêm: “Thế là được rồi, chẳng qua người ta ở nước ngoài qua muốn mua một tranh làm kỉ niệm…”. Phải trực tiếp nghe giọng mới thấy sự khinh bạc ban ơn. Tự nhiên cơn giận vụt đến. Tôi bảo: “Ông đưa khách ra khỏi phòng tranh tôi ngay. Tôi không muốn bị đối xử như thế”. Ông ta giật mình, mặt biến sắc nhìn tôi như nhìn khỉ, và không nói gì, xì xồ mấy câu tiếng Tây đưa khách ra khỏi phòng.
Nhưng ngày hôm sau, một khách Hà Lan đến chỉ bức tranh đó, biết giá 250 đô ông mua ngay! Thế là đuổi khách lại được thêm 100 đô!
Họa sĩ Ngô Xuân Khôi đến nhận tranh in tại xưởng
Thời gian ấy, trên tầng bốn nhà triển lãm có cho thuê làm cửa hàng ăn. 19h tối, một khách Nhật vào chọn mua năm tranh cả sơn lẫn giấy với tổng số tiền 1.350 đô. Tôi cho gỡ tranh còn ông lên nhà hàng tầng bốn ăn tối. Sau mới biết là ông ấy nói có đến mấy loại tiền, đô la Mỹ, Hongkong, Singapore. tôi hoang mang thì cô Bích bảo: “Anh đừng ngại, chúng em cho đổi sang tiền Việt được cả”.
Khoảng 21h, ông cùng mấy người bạn ăn xong, xuống trả tiền lấy tranh, thì một người trong đoàn với tay kéo lại một tờ 50 đô, ra hiệu muốn bớt. Tôi bực mình. Tổng số giá 1.500 đô tôi đã bớt còn có 1.350 đô, nay lại bớt nữa! Tôi không thích trò trẻ con, sẵng giọng, treo lại tranh, không bán nữa. Khách Nhật ngẩn người, rồi họ nói gì với nhau, lặng lẽ ra khỏi phòng. Còn tôi về nhà nghỉ.
22h rưỡi đêm, tôi bật dậy có cú điện thoại. Bác Trạch, bảo vệ, trông coi triển lãm bảo ông khách Nhật quay lại xin lỗi, nói bạn ông trong lúc say rượu đã có việc làm khiếm nhã, cho ông ấy xin lỗi, ông sẽ trả đủ tiền và xin được nhận tranh. Tôi đồng ý. Và sau đó ông còn mua thêm bức tranh giấy dó nữa với giá 100 đô.
Nhớ lại thấy cũng lạ, đuổi khách đi mà rồi lại bán được hơn tiền!
Cũng triển lãm ấy, có một thanh niên người Pháp trẻ chỉ bức tranh dó ghi giá 100 đô, bảo xin cho một giá tốt nhất, Tôi nói ngay 80 đô. Lặng lẽ một lúc cậu bảo 70 đô nhé, ok đi! Tôi không thích kiểu mua bán kì kèo như mua rau muống… nhưng rồi cho qua, vẫn gật đầu.
Chiều cậu qua, chìa ra 65 đô. Tôi bực mình quá lắc đầu, từ chối bán. Cậu ta bần thần một lúc rồi đi ra. Chừng năm giờ chiều quay lại, đem đủ 70 đô và xin được lấy tranh, với lời thanh minh, đang là sinh viên, nên nghèo, khó khăn về tài chính. Đợi đóng gói xong, tôi cho lại cậu ấy 5 đô, thì thấy ánh lên vẻ ngạc nhiên lạ lùng trong ánh mắt chàng sinh viên trẻ.
Lại nhớ năm 1986, bức sơn dầu đầu tiên vẽ trên bao tải, tranh “Anh hùng Núp”, bán cho ông khách Thụy Điển. Phát giá 1.500 đồng. Ông bảo tôi mua 1200 đồng được không? Tôi ok. Trả tiền xong, trước khi ông gỡ tranh mang đi tôi bảo cô Bích, người phiên dịch và trông coi triển lãm là lấy giúp hai trăm đưa lại cho ông. Khách ngạc nhiên hỏi lý do, tôi bảo ông là người mở hàng, nên tôi chia sẻ với ông một chút lộc, đó là tục lệ phương Đông. Lúc ấy thấy ông ngẩn người rồi hiểu ra , ông cầm tiền sung sướng đút vào túi và cảm ơn mãi trước khi ra về. Nhưng hôm sau ông kéo đến 5 chuyên gia ở nhà máy giấy Bãi Bằng đến mua tranh!
Mua bán tranh còn nhiều chuyện vui nữa. Xin dịp khác kể tiếp.
Đỗ Đức
Tin khác