• Loading...
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Yên Bái tập trung đẩy mạnh đưa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII vào cuộc sống
 
Lễ hội truyền thống với phát triển du lịch cộng đồng
Ngày xuất bản: 25/05/2025 2:53:13 CH

TS. TRẦN HỮU SƠN

 

        Du lịch ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số chủ yếu là du lịch cộng đồng, nhà nghỉ tại gia. Du lịch cộng đồng thu hút du khách bằng tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa. Trong tài nguyên du lịch văn hóa, kho tàng nghi lễ, lễ hội của các cộng đồng tộc người chiếm vị trí quan trọng, có sức hút đông đảo du khách. Vì vậy, phát triển du lịch ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số cần phải hiểu rõ đặc trưng du lịch cộng đồng là gì, tài nguyên du lịch mà trong đó các lễ hội truyền thống hiện nay đã và đang biến đổi ra sao, từ đó có những kế hoạch, giải pháp cụ thể để phát huy tiềm năng, thế mạnh của lễ hội truyên thống trong phát triển du lịch ở mỗi địa phương.

Hiện nay, lễ hội truyền thống đang trong quá trình chuyển đổi. Điều đó được thể hiện rõ nét trên các khía cạnh sau:

- Về thời gian:

Thời gian tổ chức lễ hội có 2 xu hướng khác nhau. Hầu hết các lễ hội làng đều rút ngắn thời gian. Ví dụ trước kia lễ hội Gầu Tào ở Mường Khương (Lào Cai) thường tổ chức 3- 5 ngày thì nay chỉ tổ chức 1 ngày. Đây là một xu hướng quan trọng trong việc tổ chức lễ hội, nhưng đối với các lễ hội vùng, lễ hội liên vùng mang tính chất hành hương thì lại được tổ chức dài ngày như: lễ hội Chùa Hương (huyện Mỹ Đức, Hà Nội), lễ hội Quốc Mẫu Tây Thiên (huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc). Các lễ hội tín ngưỡng thờ Mẫu, các lễ hội gắn với du lịch… thường có xu hướng kéo dài nhằm quảng bá du lịch (các festival, các ngày văn hóa, thể thao- du lịch, tuần văn hóa- du lịch).

- Về không gian và đối tượng tham gia lễ hội:

Trước đây, các hội làng chỉ được tổ chức ở một không gian nhất định trong làng và phạm vi, quy mô tổ chức cũng chỉ của làng. Nhưng hiện nay, do nhiều yếu tố (quảng bá du lịch, bảo tồn văn hóa truyền thống, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân) nên quy mô của các hội làng cũng được mở rộng cả về không gian và thời gian. Nhiều lễ hội không còn là lễ hội làng mà đang có xu hướng biến thành lễ hội vùng, thậm chí là lễ hội chung của huyện. Ví dụ như lễ hội Gioóng poọc của người Giáy ở Sa Pa xưa kia là lễ hội của làng Tả Van thì nay là lễ hội của cả vùng Sa Pa (tỉnh Lào Cai). Đối tượng người đến dự hội không chỉ là dân làng, mà chủ yếu du khách, có cả du khách nước ngoài tham dự. Lễ hội người Giáy ở Tả Van mỗi năm đón khoảng 450 du khách quốc tế. Lễ hội người Thái Mường Lò (Yên Bái) đón hàng trăm khách nước ngoài tham dự. Như vậy, quy mô của lễ hội ngày càng mở rộng, cả về số lượng người tham gia, trong nhiều trường hợp đã gây ra sự quá tải về không gian tổ chức lễ hội. Các cánh đồng tổ chức lễ hội xuống đồng cổ xưa, cũng như sân đình làng ở vùng đồng bằng đều trở nên quá tải khi đón hàng vạn du khách tham dự. Do vậy cần có địa điểm mới đáp ứng nhu cầu của du khách. Không gian lễ hội còn được mở rộng thành siêu không gian. Đó là sự tương tác trong các hoạt động truyền thông. Người dự lễ hội Khu Zà Zà ở Y Tý (Lào Cai) nhưng cả không gian lễ hội được mở rộng ra toàn quốc nhờ có truyền thông. Người dân không đi lễ hội nhưng quan sát, “tham dự” trên màn hình tivi, trên mạng xã hội... Sự mở rộng không gian lễ hội như vậy cũng đặt ra nhiều yêu cầu về quản lý (quản lý tại không gian vật lý của lễ hội, quản lý tại không gian ảo của lễ hội).

- Về mục đích của lễ hội:

Mục đích người dân đến dự các lễ hội truyền thống nhằm cầu mong “người yên vật thịnh”. Họ đến lễ hội bao giờ cũng tràn ngập niềm tin về “cái thiêng” của lễ hội. Nhưng hiện nay, cái thiêng của nhiều lễ hội bị “giải thiêng”. Thanh niên và một số du khách không còn hào hứng trước các màn nghi lễ mời thánh, dâng rượu, dâng hoa, tế và đọc chúc văn, mà họ chỉ mong được cướp các vật thiêng. Đối với các cơ quan tổ chức lễ hội lại cầu mong lễ hội thu hút được nhiều du khách, nguồn thu tăng lên nhờ sự tiêu dùng các dịch vụ. Sự “giải thiêng”, sự “tục hóa” chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng lộn xộn ở một vài lễ hội hiện nay.

- Về chủ thể của lễ hội:

Các lễ hội từ miền núi cho đến đồng bằng hiện nay đã có sự biến đổi về chủ thể tổ chức lễ hội. Trước đây, trong các lễ hội làng cổ truyền, người dân thực sự là chủ thể của lễ hội. Cộng đồng người dân địa phương đều háo hức tập luyện hàng tháng trời để mong được tham gia gánh vác một việc nào đó, hoặc sắm một vai nào đó trong nhiệm vụ tổ chức lễ hội. Theo đó, người được khiêng kiệu, rước lễ là một vinh dự cho cả phe, giáp, dòng họ. Các hội làng hầu hết do chủ làng và hội đồng quản lý của làng thực hiện. Nhưng hiện nay, hầu hết các lễ hội ở làng quê, miền núi đều do chính quyền các cấp chỉ đạo. Lễ hội ở miền núi dù là lễ hội của một làng hay lễ hội của một số gia đình nhưng đều có Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch xã đứng ra khai mạc, đọc diễn văn. Nhiều lễ hội ở thị trấn, ban tổ chức đứng ra làm dịch vụ tổ chức. Như vậy, vai trò của cộng đồng địa phương, vai trò của người dân - chủ thể sáng tạo của lễ hội cổ truyền, đã bị đánh mất hoặc giảm nhiều.

Việc xây dựng kế hoạch tổ chức lễ hội truyền thống gắn với du lịch nhằm bảo tồn, phát huy tài nguyên lễ hội trở thành sản phẩm du lịch, thu hút khách du lịch là một quá trình gồm nhiều bước (công đoạn) khác nhau.

Bước 1: Lựa chọn lễ hội truyền thống và thôn, bản tổ chức lễ hội với các điều kiện cụ thể như sau:

- Thứ nhất là lựa chọn nghi lễ, lễ hội có sức hấp dẫn, có khả năng xây dựng thành sản phẩm du lịch. Người Tày có lễ hội xuống đồng; người Mông có lễ hội Gầu Tào; người Dao có lễ Cấp sắc, lễ Nhảy lửa; người Giáy có lễ Gioóng poọc; người Thái Mai Châu có lễ hội Chá Chiêng; người Thái ở Tây Bắc có lễ hội Xên bản, Xên mường... Các nghi lễ, lễ hội này đều có các thành tố văn hóa nghệ thuật đặc sắc như trò diễn, trò chơi thi đấu, ẩm thực... để xây dựng thành các sản phẩm du lịch hấp dẫn. Các lễ hội được lựa chọn xây dựng thành sản phẩm du lịch phải là các lễ hội mang tính cộng đồng, được cả cộng đồng thôn bản (hoặc dòng họ) tham dự.

- Thứ hai là các thôn, bản, xã tổ chức lễ hội phải là điểm du lịch hoặc tham quan, có du khách đến tham quan.

- Thứ ba là các thôn, bản, xã tổ chức lễ hội phải có kết cấu hạ tầng, dịch vụ cần thiết để bảo đảm phục vụ du khách. Ví dụ có nơi để xe, có không gian tổ chức lễ hội đủ điều kiện về “sức chứa” du khách, có cơ sở dịch vụ đáp ứng các nhu cầu ăn, nghỉ, vệ sinh...

- Thứ tư là nơi tổ chức lễ hội phải đáp ứng được các yêu cầu về an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường.

Bước 2: Khảo sát thực tế địa bàn tổ chức lễ hội

Trước khi xây dựng kế hoạch, lãnh đạo thôn, bản, xã phải tổ chức khảo sát địa bàn dự định tổ chức lễ hội. Trong đó, phải tôn trọng cộng đồng, tôn trọng các thầy cúng, các nghệ nhân, người có uy tín chuẩn bị lễ hội. Đồng thời, khảo sát, nắm rõ thực trạng các điều kiện vật chất phục vụ nhu cầu đi lại, ăn nghỉ... của du khách.

Bước 3: Xây dựng kế hoạch tổ chức lễ hội

Muốn tổ chức lễ hội gắn với phát triển du lịch ở các thôn, bản, xã thì đòi hỏi lãnh đạo các đơn vị hành chính cùng với cộng đồng phải xây dựng được kế hoạch. Kế hoạch phải đánh giá được tài nguyên du lịch, đánh giá cơ sở vật chất tổ chức lễ hội, đón du khách, bán các sản phẩm du lịch, dịch vụ đáp ứng nhu cầu du khách. Bản kế hoạch không phải chỉ là do trưởng thôn hoặc công chức ban văn hóa xã chuẩn bị, mà cần có sự đánh giá chung của lãnh đạo thôn với các bên liên quan cùng nhất trí tham gia.

+ Trưởng thôn hoặc Trưởng Ban Văn hóa xã hội chủ trì việc tham khảo ý kiến của cộng đồng.

+ Các nghệ nhân, người có uy tín, các chủ hộ gia đình kinh doanh dịch vụ du lịch (như chủ nhà nghỉ, các hộ kinh doanh ẩm thực, bán đồ lưu niệm, hàng OCOP, người bảo vệ, đại điện doanh nghiệp lữ hành...) cùng tham gia bàn bạc góp ý.

+ Nội dung của kế hoạch gồm các phần đánh giá thực trạng về cơ sở vật chất tổ chức lễ hội, lực lượng tham gia, mục tiêu, mục đích tổ chức lễ hội như thế nào? Khai thác, phát huy các yếu tố gì của lễ hội để xây dựng thành sản phẩm du lịch? Các phương án bảo vệ trật tự an toàn, chống hiện tượng cướp giật vật thiêng, tranh chấp trò chơi... Đồng thời, bản kế hoạch cũng đề cập đến nguồn kinh phí được huy động ở cộng đồng, nguồn thu thông qua các dịch vụ du lịch...

Bản kế hoạch đóng vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức lễ hội. Bản kế hoạch thực chất là công cụ để chỉ đạo, thống nhất hành động tổ chức lễ hội. Do vậy, để có bản kế hoạch hiệu quả, thiết thực thì đòi hỏi sự tham gia xây dựng của cả cộng đồng đầy đủ các bên tham gia.

Tuy nhiên việc tổ chức lễ hội truyền thống gắn với du lịch là một nhiệm vụ quan trọng và phức tạp. Các thôn, bản, xã có thể quen với việc tổ chức lễ hội truyền thống, nhưng tổ chức lễ hội gắn với du lịch, bảo tồn, phát huy tài nguyên lễ hội trở thành sản phẩm là công việc mới hoàn toàn. Do đó, thành lập Ban Tổ chức lễ hội là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết. Thành phần của Ban Tổ chức gồm có: Trưởng thôn, bản làm Trưởng ban. Nếu lễ hội cấp xã phải do Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã làm Trưởng ban. Trưởng ban là người phụ trách, chỉ đạo chung. Ban Tổ chức thành lập các tổ kiểm tra, giám sát kinh doanh, bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm, các bộ phận trang trí khánh tiết, quảng bá tuyên truyền, bảo vệ an ninh trật tự, chuẩn bị cơ sở vật chất... Cạnh đó, các nghệ nhân, thầy cúng có nhiệm vụ tổ chức các nghi lễ, truyền dạy cho lớp trẻ các kiến thức thực hành lễ hội (dạy hát, dạy làm ẩm thực, trang trí, trò chơi, trò diễn...). Thầy cúng, nghệ nhân, già làng là linh hồn bảo tồn di sản lễ hội. Vì vậy, chính quyền và cộng đồng phải tôn trọng ý kiến của thầy cúng, nghệ nhân, già làng. Đại diện các đoàn thể, trưởng các dòng họ vận động các gia đình, các thành viên thực hiện các nhiệm vụ được phân công. Đại diện các hộ kinh doanh dịch vụ (nhà nghỉ, ẩm thực, bán đồ lưu niệm, bán hàng OCOP...) bảo đảm các điều kiện phục vụ tốt nhất cho du khách.

Ban Tổ chức lễ hội hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận, tập trung, dân chủ.

Đề cao và tôn trọng vai trò của người có uy tín, già làng, nghệ nhân, ban tổ chức không can thiệp vào thực hành nghi lễ truyền thống.

Tôn trọng sự đoàn kết, khuyến khích sự chủ động tham gia của cộng đồng. Các nhiệm vụ chung từ trước, trong và sau lễ hội cần phải được phân công rõ ràng với sự tham gia của các đoàn thể, các gia đình, cá nhân (xây dựng sân lễ hội, làm đường, làm bãi giữ xe, công trình vệ sinh...).

Trong chương trình tổ chức lễ hội truyền thống, chính quyền xã và lãnh đạo thôn tôn trọng các nghi lễ truyền thống, không tổ chức lễ khai mạc, giới thiệu đại biểu, đọc diễn văn...

Để tổ chức thành công lễ hội gắn với phát triển du lịch cộng đồng, một trong những yếu tố hết sức cần thiết, quan trọng, đó là:

Xây dựng, thiết kế sản phẩm du lịch

Xây dựng, thiết kế sản phẩm du lịch là quá trình phát triển tài nguyên du lịch lễ hội và nguồn nhân lực ở thôn bản trở thành sản phẩm du lịch. Quá trình này có các công đoạn sau:

Lễ hội có nhiều thành tố: nghi lễ, ẩm thực, diễn xướng, trò chơi... trong đó mỗi thành tố đều được tổ chức phục vụ mục đích của lễ hội. Vì vậy, khi xây dựng, thiết kế sản phẩm du lịch thì phải nắm vững mục đích của lễ hội là gì? Mục đích này là sản phẩm cốt lõi của lễ hội, cần khai thác thiết kế các sản phẩm khác.

Mỗi thành tố của lễ hội kết hợp với các dịch vụ, các hãng lữ hành đều có thể xây dựng thành các sản phẩm du lịch. Hoặc du khách tham gia các trò diễn, trò chơi phải thuê trang phục dân tộc, chụp ảnh quay phim.... đặc biệt là nhu cầu chụp ảnh ngày càng phổ biến. Bất cứ du khách nào đến dự lễ hội cũng có nhu cầu chụp ảnh để lưu lại những kỷ niệm đáng nhớ khi đến đây. Vì vậy, ở mỗi không gian lễ hội, cần xây dựng những điểm chụp ảnh có logo của lễ hội hoặc tên lễ hội, có quầy trang phục, đạo cụ... để phục vụ du khách. Những sản phẩm du lịch hoàn thiện như vậy không chỉ tăng giá trị của lễ hội mà còn góp phần tăng thu nhập. Các sản phẩm này có xu hướng tăng thu nhập cao hơn các thu nhập truyền thống, thậm chí trở thành nguồn thu nhập chính. Do đó, Ban Tổ chức lễ hội cần đầu tư nghiên cứu nhu cầu của du khách và tính đặc trưng của lễ hội để xây dựng các sản phẩm du lịch hoàn thiện hơn.

Đồng thời phương pháp khai thác tài nguyên lễ hội truyền thống trở thành sản phẩm du lịch có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức thành công lễ hội gắn với phát triển du lịch cộng đồng.

Cần phải xác định được những điểm thuận lợi, khó khăn của tài nguyên lễ hội truyền thống với yêu cầu phát triển du lịch. Khai thác tài nguyên lễ hội truyền thống để xây dựng các sản phẩm dịch vụ du lịch có một số điểm thuận lợi và khó khăn sau.

- Về thuận lợi:

Thuận lợi lớn nhất là nhờ tổ chức lễ hội truyền thống mới quảng bá mạnh mẽ cho du lịch ở địa phương phát triển. Không một hoạt động quảng bá nào thu hút được đông đảo du khách tham dự bằng lễ hội. Lễ hội truyền thống được mở ra gây tiếng vang lớn cho toàn vùng, có sức hút mạnh mẽ du khách. Ngày thường, có thôn bản ít đón tiếp được du khách, thậm chí không có du khách đến thăm. Nhưng ngày lễ hội có hàng trăm, hàng ngàn du khách đổ xô đến làng, thôn, bản để tham dự lễ hội.

Điểm thuận lợi thứ hai là thông qua lễ hội, các giá trị văn hóa, thẩm mỹ, lịch sử truyền thng của thôn bản được giới thiệu rộng rãi cho đông đảo du khách. Chỉ trong vài ngày, vẻ đẹp của thôn bản, làng quê, truyền thống văn hóa cổ xưa, chiều sâu của các di tích lịch sử hay hương vị đậm đà của ẩm thực... đều được du khách đồng loạt tiếp nhận. Nhiều nghi lễ, phong tục giàu bản sắc, vẻ đẹp tiềm ẩn của cảnh quan môi trường không ngừng thu hút sự khám phá, trải nghiệm của khách tham quan. Nhiều đồ lưu niệm, hàng OCOP sản xuất cả năm chỉ bán trong vài ngày. Nguồn thu của người dân trong lễ hội truyền thống cũng tăng cao. Thậm chí, đối với những người làm dịch vụ thì nguồn thu trong mấy ngày diễn ra lễ hội đã tương đương với nguồn thu cả năm.

- Về khó khăn:

Khó khăn trước hết là thời gian tổ chức lễ hội truyền thống chỉ giới hạn trong một vài ngày. Thời gian ngắn như vậy nhưng cộng đồng dân làng, thôn, bản phải tổ chức hàng chục sự kiện, hàng chuỗi nghi lễ, trò vui... Thậm chí, cùng một thời điểm, nhiều sự kiện đồng loạt được tổ chức. Tính chất dồn nén về thời gian đòi hỏi sự năng động, chuyên nghiệp của Ban Tổ chức. Lúc đó, sự kiện dồn dập nhưng lại không được làm sai, không được nhầm lẫn. Yêu cầu nghiêm ngặt cùng với tâm lý căng thẳng đòi hỏi Ban Tổ chức và các thành viên phải ứng phó nhanh nhẹn, chuẩn xác. Đã là ngày hội thì dù vất vả, bận rộn đến mấy, người tổ chức các dịch vụ cũng phải hiếu khách, nét mặt, hành động, biểu cảm phải luôn thể hiện được sự chào đón, mến khách.

Khó khăn thứ hai là không gian làng quê, thôn bản còn hạn chế nhưng lại phải đón số lượng du khách “khổng lồ”. Ngày thường, mỗi nhà nghỉ tại gia chỉ đón khoảng mươi, mười lăm khách, nhưng vào ngày hội phải đón hàng trăm khách. Quán ăn ngày thường chỉ phục vụ vài ba chục người thì vào dịp lễ hội sẽ phải đón nhiều lượt khách liên tục có khi lên đến hàng trăm, hàng nghìn người đổ về, dễ gây ra sự quá tải, thiếu chu đáo. Nếu không tổ chức tốt thì sẽ dẫn đến tình trạng vỡ hội.

Khó khăn thứ ba là các lễ hội du lịch ít thu hút được các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vì cả năm chỉ trông đợi vào mấy ngày hội, các doanh nghiệp thờ ơ, nếu đầu tư vào nhà nghỉ mà mỗi năm chỉ có mấy ngày lễ hội mới có khách đến thì không một doanh nghiệp nào muốn đầu tư.

Khó khăn thứ tư là du khách đổ về lễ hội với nhiều lứa tuổi khác nhau, thậm chí nhiều dân tộc, vùng miền khác nhau. Do tác động của tâm lý đám đông, họ dễ nảy sinh các hành động chộp giật vật thiêng, chen lấn xô đẩy. Vì vậy, điều này cũng đòi hỏi Ban Tổ chức lễ hội và cộng đồng phải có phương án bảo đảm an ninh trật tự, an toàn lễ hội.

Như vậy, lễ hội truyền thống được khai mở đón khách du lịch đem đến nhiều cơ hội cho phát triển du lịch, cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho cả Ban Tổ chức cũng như cả cộng đồng. Phương án tổ chức ra sao? Khai thác thế mạnh như thế nào? Vấn đề phục vụ tổ chức các dịch vụ ra làm sao là những câu hỏi lớn đòi hỏi cả cộng đồng và các bên liên quan phải cùng chung tay giải đáp. 

                                                                                             T.H.S

 

 

Văn nghệ Yên Bái số mới

Đất và người Yên Bái qua ảnh

Thư viện video

Các cuộc thi Văn học nghệ thuật

Lượt truy cập

Visitor Counter