Lý luận, phê bình tham gia điều chỉnh, định hướng Và đồng hành cùng sáng tạo văn học, nghệ thuật

NAM HÀ

 

Đồng hành cùng lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng hàng nghìn năm của dân tộc, văn học- nghệ thuật đã bền bỉ sáng tạo, bồi đắp bản sắc văn hóa và phẩm giá Việt Nam. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc trong thế kỷ XX, khi văn hóa văn nghệ cũng là một mặt trận và văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy thì văn học, nghệ thuật thực sự trở thành một “binh chủng đặc biệt” đóng góp tích cực vào công cuộc kháng chiến kiến quốc. Rồi suốt mấy chục năm qua, đội ngũ văn nghệ sĩ đã hòa mình vào thực tiễn phong phú, sinh động của sự nghiệp mới đất nước, chủ động đổi mới tư duy cũng như quan niệm nghệ thuật và hình thức biểu đạt. Tiếp tục dòng mạch chính là chủ nghĩa nhân văn và yêu nước, các văn nghệ sĩ đã sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao cổ vũ khát vọng phát triển đất nước giàu mạnh, phồn vinh; góp phầnxây dựng nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn con người Việt Nam, hướng tới các giá trị Chân- Thiện- Mỹ. Trong quá trình phát triển hết sức sôi động, phong phú và đa dạng của cuộc sống xuất hiện nhiều vấn đề còn rất mới lạ, đang biến động theo nhiều chiều hướng khác nhau đan xen giữa cái cũ và cái mới, giữa tiến bộ và lạc hậu, xấu và tốt, thật và giả… mà không phải ai, thời điểm nào cũng có thể phân biệt rạch ròi được. Hiện thực vốn luôn là nguồn cảm hứng cho văn nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật. Nhưng cảm hứng ấy không giống nhau giữa các văn nghệ sĩ, nó tùy thuộc vào nhiều yếu tố: cách tiếp cận, phương pháp, tài năng và cả lý tưởng xã hội cũng như cái tâm của người nghệ sĩ. Từ đó có thể thấy rằng nguồn gốc của tác phẩm văn học, nghệ thuật chính là hiện thực được phản ánh thông qua lăng kính chủ quan của tác giả, để rồi tác động trở lại cuộc sống thông qua sự tiếp nhận của người đọc, người xem. Là sản phẩm tinh thần, tác phẩm văn học, nghệ thuật sớm góp phần hình thành nên nhân cách con người, giúp “con người trở nên con người nhất”. Thế nên cũng không lạ khi có tác phẩm văn học, nghệ thuật lại tác dụng ngược đánh gục con người, không chỉ một mà có khi đến nhiều thế hệ nếu để mất niềm tin.

Là khoa học đồng thời là nghệ thuật, lý luận phê bình không đứng ngoài, đứng trên sáng tạo mà là thành tố hữu cơ của văn học, nghệ thuật. Nếu như lý luận tìm ra những đặc thù về văn học, nghệ thuật thì phê bình phải nghiên cứu lý luận và vận dụng vào đánh giá tác phẩm. Bởi vậy lý luận, phê bình có chức năng thẩm định, đánh giá tác phẩm, tác giả; phát hiện các giá trị, các quy luật, dự báo, phát hiện cái mới; tham gia điều chỉnh, định hướng cho sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật. Lý luận, phê bình và sáng tạo văn học, nghệ thuật bao giờ cũng đồng hành, tác động tương hỗ lẫn nhau để làm nên tiến trình văn học- nghệ thuật của một dân tộc. Hiện nay lý luận, phê bình mới chỉ đồng hành ở giai đoạn cuối cùng. Sáng tạo văn học- nghệ thuật đi trước, phê bình hình thành sau. Mặc dù đi sau sáng tác nhưng phê bình lại mang tính định hướng. Bởi vì thông qua sáng tác mà đúc kết lý luận và từ nghiên cứu lý luận để có cơ sở vận dụng vào sáng tác cũng như đánh giá tác phẩm. Khi cần nó là đèn tín hiệu báo nguy giúp chúng ta tránh những sai trái, những thiếu sót, khiếm khuyết trongquá trình sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật. Nếu chúng ta làm tốt công tác lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật thì sẽ có hiệu quả tích cực đối với hoạt động sáng tác và tiếp nhận của những người thụ hưởng. Thời gian gần đây số lượng tác phẩm văn học nghệ thuật ra đời ngày càng nhiều. Thêm nữa công chúng bị cuộc sống bộn bề cuốn hút, không có nhiều thời gian dành riêng cho tiếp nhận tác phẩm văn học- nghệ thuật nên lý luận phê bình là kênh thông tin hữu hiệu góp phần quảng bá. Thực tế cho thấy có tác phẩm khi mới ra đời (tác phẩm văn học, kịch, điện ảnh, hội họa…) chưa được người đọc, người xem chú ý nhưng khi xuất hiện một vài bài phê bình, nhất là tranh luận xung quanh vấn đề tác phẩm đặt ra thì lại tạo hiệu ứng kiếm tìm. Còn về tiếp nhận tác phẩm văn học, nghệ thuật hiện nay do trình độ hiểu biết của công chúng có khác nhau nên đôi khi nhận thức về một tác phẩm nào đó vẫn có sự lệch lạc. Rồi khi chịu tác động của kinh tế thị trường không tránh khỏi những tác phẩm “mì ăn liền” chất lượng nghệ thuật thấp. Người làm công tác lý luận phê bình với kiến thức đã được trang bị sẽ giúp bạn đọc hiểu đúng, hiểu sâu tác phẩm, góp phần định hướng dư luận và nâng cao thị hiếu thẩm mĩ cũng như văn hóa cho công chúng. Mặt khác, thông qua lý luận, phê bình cũng giúp người sáng tác hiểu rõ hơn công chúng, nhận ra mặt mạnh của mình để phát huy và hạn chế để khắc phục. Rồi khi xuất hiện một số trào lưu mới thì sáng tạo văn học, nghệ thuật luôn luôn cần có sự soi chiếu của lý luận. Vấn đề này đang đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Có thể nói lý luận phê bình tác động đến sáng tác, sáng tác là cơ sở để lý luận, phê bình tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, hoạt động lý luận, phê bình không thể thiếu để song hành cùng sáng tác. Làm tốt công tác lý luận, phê bình văn học- nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng trong việc kích thích văn nghệ sĩ sáng tạo nhiều tác phẩm chất lượng cao. Một thực tế là tại các địa phương, số người tham gia sáng tạo văn học, nghệ thuật hiện nay gia tăng do quá trình vận động và phát triển hội viên. Song lại có sự chênh lệch về trình độ hiểu biết chuyên ngành, kỹ thuật sáng tác. Công tác lý luận phê bình còn có trách nhiệm bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao năng lực sáng tạo để xây dựng đội ngũ đông mà chất lượng.

Trong sự nghiệp đổi mới gần bốn chục năm qua, dưới tác động của tư tưởng đổi mới, văn học nghệ thuật đã vượt qua nhiều khó khăn và thách thức, tiếp tục phát triển, đạt được nhiều thành tựu, trong đó có sự đóng góp quan trọng của công tác lý luận, phê bình. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” ghi nhận “Công tác lý luận văn học, nghệ thuật có bước đổi mới, lý giải khoa học hơn quan hệ giữa văn học, nghệ thuật với chính trị, giữa hiện thực và nghệ thuật. Tư tưởng văn học, nghệ thuật truyền thống của cha ông đã được quan tâm nghiên cứu. Các thành tựu văn học, nghệ thuật thế kỷ XX được đánh giá lại thỏa đáng. Một số phương pháp nghiên cứu văn học, nghệ thuật phi truyền thống được vận dụng, bước đầu đem lại kết quả tốt. Phê bình văn học trong thời kỳ đổi mới có tác động tích cực đối với sáng tác, phát hiện cái tốt, ủng hộ cái mới, tiến bộ trong hoạt động sáng tạo”. Tuy vậy, theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu về những hoạt động lý luận, phê bình văn học- nghệ thuật ở Trung ương và các địa phương hiện nay không phải không gặp những khó khăn, hạn chế nhất định. Hiện vẫn chỉ mới dừng lại ở nội dung nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp, nhận thức của nghệ sĩ, phát hiện những vấn đề mới trong sáng tác, nghiên cứu, biểu diễn... nên giá trị định hướng hoạt động sáng tạo và tiếp nhận văn học nghệ thuật chưa cao; trước hàng loạt sự kiện, hiện tượng nóng bỏng xuất hiện trong đời sống văn học, nghệ thuật nhiều khi phê bình còn lúng túng, thiếu nhạy bén chính trị và nghệ thuật, chưa phản ánh kịp thời, thậm chí còn mơ hồ trong nhận định, đánh giá và lý giải; hình thức tổ chức vẫn theo cách làm truyền thống, còn nặng về phong trào, dường như vẫn thiếu tính chuyên nghiệp nên chưa tạo nên những cuộc trao đổi cởi mở, chưa mở rộng và chưa dẫn dắt được công chúng thưởng thức văn học, nghệ thuật. Những hạn chế của công tác lý luận văn học, nghệ thuật hiện nay cũng được chỉ rõ trong Nghị quyết số 23-NQ/TW: “Hoạt động lý luận văn học, nghệ thuật còn lạc hậu về nhiều mặt, chưa giải đáp được nhiều vấn đề của đời sống, còn xa rời thực tiễn sáng tác, có biểu hiện xơ cứng, kém năng động, giảm sút tác dụng tích cực đối với sáng tác. Lý luận văn nghệ và mĩ học mác-xít chưa được nghiên cứu và phát huy tương xứng với vai trò và giá trị của nó. Hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật có biểu hiện tụt hậu so với yêu cầu, thực hiện chưa tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh và đồng hành với sáng tác. Chất lượng khoa học và tính chuyên nghiệp của phê bình bị xem nhẹ; xuất hiện lối phê bình cảm tính thiếu một hệ thống tiêu chí tin cậy để đánh giá tác giả và tác phẩm; văn hóa phê bình bị hạ thấp...”.

Để khắc phục tình trạng lý luận, phê bình đang có vẻ trầm lắng, chưa phát huy hết vai trò và sức mạnh của mình so với thực tiễn sáng tác rất sôi động, đa dạng, phong phú, thậm chí phức tạp cùng nguy cơ hiện hữu đang phải đối diện với sự “quay lưng” của giới sáng tác cùng công chúng văn nghệ. Nhiều cuộc hội thảo về vấn đề này đã được tổ chức; nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ đã được mở nhằm nâng cao nhận thức và tăng cường đội ngũ làm công tác lý luận, phê bình. Bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện, nền văn học- nghệ thuật nước nhà đang đứng trước những cơ hội to lớn và cả những thách thức gay gắt trong quá trình phát triển. Nhiệm vụ nâng cao tính lý luận, trình độ khoa học, trình độ thẩm mỹ, vốn hiểu biết thực tiễn sáng tác, thực tiễn cuộc sống nhằm đưa phê bình văn học, nghệ thuật phát triển mạnh mẽ, đồng thời khắc phục những yếu kém kéo dài là rất cấp thiết. Để góp phần chấn hưng phê bình văn học- nghệ thuật Việt Nam hiện nay, một nhiệm vụ cần đặc biệt quan tâm là sớm hoàn thành việc xây dựng hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam hiện đại, khoa học đủ sức giải đáp những vấn đề đặt ra trong thực tiễn như Nghị quyết 23 và các văn kiện quan trọng của Đảng đã đề ra. Trong khi chờ đợi những bước chuyển mới về cơ chế, chính sách và điều kiện làm nghề, các nhà phê bình cần tiếp tục nuôi dưỡng và truyền giữ ngọn lửa đam mê sáng tạo, phát huy trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân của mình để từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng phê bình văn học, nghệ thuật; góp phần cổ súy cho Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Đảng đã được xác định tại Đại hội XIII là “Nâng cao vai trò của văn hoá, nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách của con người Việt Nam, nhất là trong thế hệ trẻ. Bảo đảm quyền hưởng thụ, tự do sáng tạo trong hoạt động văn hoá, nghệ thuật của mỗi người dân và cộng đồng”. Hiện nay, vấn đề đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên lĩnh vực văn học- nghệ thuật lại càng cần những người làm công tác lý luận, phê bình phải có hiểu biết sâu rộng về lý luận văn nghệ Mác xít. Đồng thời nhanh chóng tiếp cận các trào lưu, khuynh hướng sáng tác, phê bình hiện đại để có cơ sở giải mã các hiện tượng văn học- nghệ thuật lệch lạc, tấn công lại sự chống phá, khẳng định vai trò, vị trí của văn nghệ Xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội.

N.H

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter