Những chàng trai Việt trên Cánh Đồng Chum

  Vũ Nho

  (Đọc Cánh đồng Chum mùa hoa ban- Tiểu thuyết của Hoàng Thế Sinh, Nxb Hội Nhà văn, 2021)

Nhà văn Hoàng Thế Sinh là một người viết vạm vỡ của không chỉ Yên Bái mà của cả nước. Cuối tiểu thuyết “Cánh đồng Chum mùa hoa ban”, chúng ta thấy gia tài văn chương anh sở hữu: 1 tập thơ, 2 tập bút kí, 7 tập truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết. Lại còn 2 tập tiểu thuyết sắp in. Nghĩa là phải hòm hòm bản thảo. 21 tập sách! Thật đáng nể!

Tiểu thuyết “Cánh đồng Chum mùa hoa ban” là cuốn tiểu thuyết thứ 8 của nhà văn. Cuốn sách này theo tôi hiểu là cuốn tiểu thuyết khác biệt của anh so với các cuốn khác. Điều đặc biệt ấy là gì? Có thể nhận ra từ những dòng cuối của trang 266, kết thúc phần Vĩ thanh: “Không nguôi nhớ bạn, nhớ đồng đội vĩnh viễn tuổi hai mươi. Chiến trường Cánh Đồng Chum, Xiêng Khoảng, Lào, 1771- 1972”. Và trang cuối cùng là tấm ảnh với dòng chú thích: "Binh nhì Hoàng Thế Sinh,  Ngày vượt Trường Sơn sang Cánh Đồng Chum, mùa Thu 1971".

Như thế, tiểu thuyết này được viết bởi người trong cuộc, người trực tiếp tham gia chiến trận. Dẫu rằng có những hư cấu, những sắp xếp chương mục, những nhấn nhá của tác giả, thì cốt lõi vẫn có thể thấy chất tự truyện của nhân vật Hoàng với quê quán ở làng Bích Tràng, Hưng Yên, quê khai hoang ở Yên Bái, những chàng trai chủ yếu ở Yên Bái chiến đấu trên đất bạn Lào năm 1971- 1972. Có thể lấy suy nghĩ của nhân vật Hoàng khi viết bài thơ Hoa Ban để nói về việc viết tiểu thuyết này. Tiểu thuyết “được viết bằng máu của đồng đội, viết bằng  sự hi sinh vô cùng dũng cảm của tuổi trẻ, được viết từ cái chết thảm khốc, chết đến hai lần của đồng đội, được viết từ cái chết thảm khốc của một cánh rừng hoa ban trắng ngần đương giữa mùa Xuân trên đất bạn Lào” (tr.150).

Tác giả xây dựng bố cục tiểu thuyết với 6 chương và một phần Vĩ Thanh. Sáu chương theo thứ tự thời gian. Đường vào chiến dịch. Sau đó là các chương miêu tả các trận đánh: Lính tò te đánh trận (trận Phu Tâng), Bẫy mìn Claymor (trận Sàm  Thông). Cao điểm rỗng (trận đánh cao điểm 1978), Một mình và ác thú (trận Tà Can), Cờ Pa- thét Lào (trận Nam Tra). Các trận đánh dữ dội, ác liệt, các chiến sĩ bộ đội ta hi sinh nhiều, nhưng đều giành thắng lợi.

Nhà văn đã không đơn thuần kể lại các trận chiến diễn ra như thế nào. Ngòi bút của tác giả tập trung vào những suy nghĩ, cảm nhận của các chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam nơi bom đạn ngút trời, nơi cái sống cái chết cận kề gang tấc. Nhân vật được khắc họa kĩ nhất là Hoàng, chiến sĩ phụ trách máy thông tin vô tuyến 2 W. Cùng với Hoàng là Bình, người lính bắn B41, là Tương Lai, con trai nhà văn Hoàng Hạc, là Phú, chiến sĩ thông tin hữu tuyến cùng với Giền rải dây, nối dây đảm bảo thông suốt thông tin.

Không thiếu, có thể nói là quá nhiều những tiếng nổ ùng, oàng, bùm, ùng ùng, chíu chíu, đoành đoành…, nhưng nhà văn không tập trung khắc họa cuộc bắn nhau của hai phía. Tác giả viết về những hi sinh, tổn thất, mất mát của phía ta.  Chưa đánh trận mà  “chiến sĩ ta đã chết nhiều thế, chết vì bom tọa độ, chết vì pháo tọa độ, chết vì sốt rét” (tr.42). Vào trận thì tổn thất càng lớn hơn “Đau thế, trận đầu Phu Tâng mất Lập, Chước, Qui cùng với mấy chục đồng đội, cả Bun Kim đại trưởng sắp được phong anh hùng nữa. Trận Sàm Thông thì mất mấy chiến sĩ do dính mìn cóc. Trận Tà Can mất Thăng, Thắng cùng mấy chục đồng đội. Hoàng và Vinh bị thương, không biết sống chết thế nào? Trận 1978 mất mấy chục chiến sĩ do bị bom và pháo” (tr.241). Chết chóc như thế, nhưng các chiến sĩ ta vẫn vững tinh thần, mặc dù cũng sợ chết chứ không phải là không biết sợ.

- Cậu sợ chết không?

Hoàng trả lời thật lòng:

- Sợ chứ! […]

Hoàng hỏi lại Xuân:

- Thế còn cậu? Có sợ chết không?

Xuân nói thật:

- Mình đã qua một mùa chiến dịch rồi, biết mùi chiến trường rồi, biết mùi bom đạn, chết chóc, đau thương, kinh khủng lắm, cũng biết sợ chết đấy. (tr.124).  

Đây là những trang viết trung thực và chân thực. Sợ chết, nhưng họ vẫn ra trận, vẫn  sẵn sàng theo lệnh chỉ huy. Bởi lẽ họ chiến đấu “Vì Danh Dự Một Con Người”.

Bên cạnh những trang viết về cuộc chiến đấu dữ dội, ác liệt, vẫn có những trang miêu tả các chiến sĩ hồn nhiên tổ chức sinh nhật, gặp gỡ giao lưu với các cô gái Lào, đọc thơ, kể chuyện hài. Không thống kê hết, nhưng có rất nhiều các bài hát của Việt Nam, của Lào được các chiến sĩ hát thầm khi đợi giờ G, hát khi gặp gỡ các thiếu nữ Lào. Các bài hát, bài thơ thể hiện niềm yêu cuộc sống, yêu quê hương, mến yêu đất nước Lào với hoa chăm pa, với điệu múa lăm vông, với thiên nhiên tươi đẹp như miền Tây Bắc của Việt Nam. Hình ảnh thiên nhiên Lào tươi đẹp, đặc biệt là rừng Ban được tác giả khắc họa kĩ lưỡng. Cùng với vẻ đẹp là sự chết chóc, đau thương mà kẻ thù gây ra cho rừng Ban, cũng là gây ra cho đất nước Lào anh em. Không nhiều về những người dân Lào, chiến sĩ Pa-thét Lào, nhưng bạn đọc có thể cảm thông, trân trọng với người mẹ có tên Bun May, yêu mến các cô gái Lào, xinh tươi đáng mến như Bua Xa Ly, Bun La…

Một điều đáng ghi nhận là nhà văn đã dùng nhiều những giấc mơ, những tưởng tượng, những giai thoại có tính chất huyền ảo làm tăng sức hấp dẫn của tiểu thuyết. Mặt khác cũng làm cho hiện thực chiến tranh không chỉ trần trụi súng đạn, bom pháo và những mất mát, hi sinh. Đó là đoạn nói về chùa Cỏ linh thiêng của làng Bích Tràng thờ bà Hương Thảo, nữ tướng của Hai Bà Trưng. Đó là giấc mơ Bình gặp Người Lạ, lên lưng Voi Xám cùng đội chiến tượng đánh phỉ Vàng Pao và Mỹ ở Long Chẹng (Chương 4). Đó là câu chuyện cổ tích Sự tích cây hoa ban, vốn là cô gái út của thần núi Pu Luông có năm con gái Ba, Bốn, Bảy, Bảo, Ban (Chương 5). Đó là giấc mơ của Bình bắn 9 quả đạn lõm B41 gặp và đối thoại với tổng thống Hoa Kì. Trong khi Bình đàng hoàng, tự tin thì tổng thống lại ngạc nhiên, lẩm bẩm trước người chiến sĩ trẻ Việt Nam (Chương 6).

Có thể khẳng định rằng, đến cuốn tiểu thuyết thứ 8 thì người viết đã làm chủ ngòi bút của mình, đã thành thạo các mảng miếng, đã già dặn trong bút pháp thể hiện. Có thể nói gọn lại, tác giả đã thành công khi viết về cuộc chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam trên đất Lào, góp phần vào chiến thắng chung của hai dân tộc. Tư tưởng chủ đề quan trọng của cuốn sách được thể hiện tập trung qua những vần thơ mà Hoàng, nhân vật chính đã viết, và được tác giả đưa lên bìa bốn:

Ơi chiến tranh ngươi là con quỷ dữ!

Ngươi đã giết chết những người bạn của ta tràn trề nhựa sống đương hai mươi tuổi.

Ngươi đã giết chết những ước mơ cao đẹp của bạn ta đương hai mươi tuổi.

Ngươi đã giết chết những cây ban có chiếc lá hình trái tim như trái tim của bạn ta đương hai mươi tuổi.

Ngươi đã giết chết những bông hoa ban trắng ngần như tình yêu của bạn ta đương hai mươi tuổi.

Nhưng không phải thế đâu, hỡi con quỷ chiến tranh!

Hi sinh vì nghĩa lớn, bạn của ta mãi trẻ trung cùng đất nước

Cây ban lại mọc lên, xanh biếc lá hình trái tim

Hoa ban lại nở trắng ngần giữa mùa Xuân bình yên.

Giải thưởng văn học sông Mê Kông trao cho tiểu thuyết “Cánh đồng Chum mùa hoa ban” của Hoàng Thế Sinh là một sự vinh danh xứng đáng.

 

V.N

                

                

 

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter