HOÀNG VIỆT QUÂN
Trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam có rất ít câu đề cao hay nói tốt về loài rắn, ngoại trừ câu “Thần thiêng sao sáo, rắn ráo đại vương”, “Ma trâu, thần rắn”, có lẽ vì sợ rắn mà gọi, mà thờ thế chăng? Ngay cả Rồng là loài vật linh thiêng, có kẻ đội lốt Rồng cũng bị bóc mẽ: “Đầu rồng đuôi rắn”, “Trong nhà rắn rồng, ra đồng hò ngựa”. Việc ghép rắn rồng khiến Rắn có vẻ linh thiêng, thần thế. Cái câu “Rồng rồng rắn rắn”, “Rồng rắn lên mây” nghe thì oai, thực ra chỉ là câu hát đồng dao trong trò chơi của con trẻ khi chúng ghép hai con vật giống nhau về hình dáng nhưng khác nhau về kích cỡ to nhỏ, địa vị, danh phận thành một thú vui thuần túy, ngẫm kỹ cũng thấy vui hài. Ở một mối quan hệ nào đó, người ta có câu “Quy xà hợp thể” (Hợp thể rùa rắn), “Quy dữ xà giao” (Rùa với rắn giao tiếp), “Nhất rốn chị sui, nhì đuôi rắn hổ” (Đông Nam Bộ), xem ra rắn cũng có vai trò quan trọng, có ích. Đó là khi Rắn trở thành các món ăn ẩm thực thú vị, nhất là món “Tam xà đại hội” gồm các loại rắn độc và không độc được chế biến phối hợp với các gia vị. Rắn còn được làm thuốc, đặc biệt là đơn thuốc “Tam xà đởm trần bì” gồm 3 loại rắn phối hợp với vị trần bì và nhiều vị khác, khá bổ dưỡng.
Trong quá trình phát triển, Rắn có đặc tính mang tính quy luật là “Rắn già rắn lột”, vì vậy người ta có sự so sánh, liên hệ với quy luật tất yếu của đời người: “Rắn già rắn lột, người già người chột”, “Rắn già rắn lột, người già người chui tuột vào săng”, “Rắn già rắn lột xác, người già chết chui vào quan tài đem chôn” (tích truyện dân gian dân tộc Tày).
Người Hoa có tích “Nhân thủ xà thân” (đầu người mình rắn) thì người Việt có chuyện “Nửa rồng nửa rắn” và tượng Rồng đá (xà thần) ở đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Tượng có dáng hình độc đáo “nửa rồng nửa rắn” trong tư thế “miệng cắn thân, chân xé mình”.
Ngày xưa việc trồng lúa ở Thái Bình chưa có thuốc trừ sâu, sâu bệnh cũng ít, chủ yếu là các loại màng rạp. Đây là loại bệnh mà cây lúa thường gặp phải, bà con đã có ý thức phòng ngừa bằng câu nói: “Gà kỵ rắn hổ mang, lúa kỵ màng rạp”.
Ở các miền quê trong nước, đồng bào thường nhận xét nọc độc của Rắn rất nguy hiểm, Rắn có thể cắn chết người như hổ dữ: “Con hổ vằn da, con rắn xanh độc có nọc” (Mông), “Rắn hiểm độc, hổ ác dữ” (Bru Vân Kiều), “Hang hùm ổ rắn”, “Hang hùm miệng rắn”, “Miệng hùm nọc rắn”. Người Tày ở huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái nói “Rắn câm cắn chết người”. Bà con còn có ý khuyên giải khi đi rừng phải cẩn thận bởi “Con rắn không chân chạy năm rừng bảy núi”. Đi rừng phải đập gậy để xua đuổi rắn bởi “Động cỏ làm rắn sợ”.
Vì Rắn có nọc độc nên người ta sợ, do đó mới có cảnh “Gặp rắn thì giật mình” (Tày), “Bị rắn cắn một lần, thấy cái dây đã hoảng”. Người Tày- Nùng ở huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái có câu “Đêm thì rết cắn, ngày thì rắn phun” xuất phát từ một tích truyện vừa là nỗi sợ hãi vừa mang ý nghĩa giễu cợt, khôi hài. Với cảnh tượng các loài vật săn bắt nhau dã man, hãi hùng, bà con khuyên bảo: “Không nhìn diều tha rắn, không nhìn cua tha cà cuống” (Tày), “Không nhìn diều tha rắn, không nhìn cua tha niềng niễng” (Tày).
Việc bắt rắn, không phải ai cũng làm được. Người Tày nói: “Gan dạ mới bắt được rắn”. Việc đánh, giết rắn, trăn, khá khó khăn, vất vả, bà con nói: “Giết một con trăn chuột mất ba vụ thóc” (Tày), thậm chí có cảnh: “Rắn độc cắn, người nằm chết trên cây thuốc mà không biết” (Tày).
Đánh rắn, bà con có lời khuyên: “Chớ đánh rắn trong hang, chớ đánh đại bàng trên chín tầng mây”, còn có hàm ý: Chớ liều lĩnh làm việc nguy hiểm, viển vông, bất lợi, mà cần phải có mưu trí để “Dụ rắn ra khỏi hang” hoặc “Nhử rắn lên cây mà đánh, nhử cầy lên ngọn mà tiêu”. Với kẻ thù được ví như rắn độc, người Liễu Đôi khuyên nên khéo léo dụ dẫn “Nói rắn trong lỗ cũng phải bò ra” như các cụ xửa xưa thường nhắc nhở: “Nói ngọt lọt đến xương”, “Nói phải củ cải cũng nghe”.
Đánh rắn có nhiều cách, nhưng đã đánh thì đánh triệt để như người Dao nói: “Đánh rắn đánh đến chết/ Nhổ cỏ nhổ bật gốc”, “Đánh rắn cho chết nọc”, “Đánh rắn dập đầu”, “Đánh cho rắn phải dập đầu”. Người Liễu Đôi cũng chỉ rõ: “Đánh rắn chọn đầu, đánh sâu chọn rễ” với mục dích “Làm rắn mất đầu, làm sâu mất nọc, làm cóc mất gan”. Cũng có khi người ta “Đánh rắn để đầu”, “Đánh rắn động cỏ”. Nhưng cũng có chuyện lạ ở đời khiến người ta phải thốt lên:“Rắn đến nhà chẳng đánh thì quái”.
Liễu Đôi là vùng đất có võ vật nổi tiếng. Người Liễu Đôi có nhiều câu nói hoặc tục ngữ nói về thế đánh, cách đánh giặc như cách đánh Rắn đạt được hiệu quả cao. Chẳng hạn câu “Rắn phồng mang dọn đàng, rắn bò quàng cầm giáo” ý là: Kẻ thù lăm le (phồng mang) thì ta phải chuẩn bị cơ mưu, tìm đường tiến thủ (dọn đàng), khi kẻ thù kéo đến (bò quàng) là có thể cầm vũ khí chiến đấu ngay.
Câu “Chém văng đầu rắn, chém nắn lại gươm” được giải thích: “Chém văng đầu rắn” có nghĩa là đánh tan điểm trọng yếu của địch, “chém nắn lại gươm” có ý nghĩa là tập trung đánh mạnh, đánh hết sức.
Câu “Rắn độc không sợ bằng ốc leo” được giải thích: “Ốc leo” là chỉ việc kẻ thù bền bỉ thận trọng tiến đánh mình chậm chắc như ốc leo, lấn mình từng bước, điều đó đáng sợ hơn đánh rắn độc.
Câu “Rắn độc đánh thốc vào đầu, ruồi bâu bắc cầu cho chạy” ý nói: Phải chọn đúng kẻ thù chính mà đánh, phải phân hóa kẻ thù, “đánh thốc vào đầu” kẻ thù chính, còn bọn a tòng như lũ “ruồi bâu” thì chừa cho chúng một lối thoát, mở đường cho chúng chạy.
Câu “Một con người đần bằng một sân rắn độc/ Một con người ngọc, áo bọc ác hoàng” là câu có sự so sánh, phân biệt giữa người “đần” kém cỏi và người tài giỏi. Song người ta dù ngu đần, kém cỏi đến đâu cũng là người dân hiền lành trong nước, cớ sao lại so sánh họ “bằng một sân rắn độc”? Còn ở câu hai, vế dưới, đề cao người tài. “Người ngọc” ý chỉ người sáng suốt, khôn ngoan đáng quý. “Ác hoàng”: văn học dân gian vùng Liễu Đôi gọi chữ “Ác hoàng”, “Hoàng ngân” đều chỉ mặt trời. “Áo bọc ác hoàng” được giải thích là áo gói (bọc) cả mặt trời, ý là bao quát được những việc to lớn trọng đại. Có lẽ câu này nói về phẩm chất và tài trí của người chỉ huy chăng?
Không chỉ dừng ở nhận xét về loài rắn, nỗi sợ rắn, kinh nghiệm đánh, bắt rắn, đánh giặc, mà nhân dân còn mượn loài rắn để sáng tạo ra các câu thành ngữ, tục ngữ nói về đời sống xã hội, tâm linh, bóng gió ám chỉ, phê phán những thói hư tật xấu của con người trong xã hội.
Với đời sống tâm linh, các thầy mo người Nùng Dín có nguyên tắc là tránh xuất hành hoặc tránh làm lễ mo vào ngày Tỵ trong các tháng 2, 5, 8, 11 âm lịch vì ngày con rắn là ngày phản sư đối với thầy mo:
Hai, năm, tám, mười một
Rắn cắn ruột thầy mo
Trong cuộc sống có lúc người ta bị thua thiệt, hụt hẫng, hoang mang, mất phương hướng được ví “Như rắn mất đầu”. Sự vụng về, yếu kém, bao biện được nhân dân giễu cợt là “Vẽ rắn thêm chân”. Những hành vi gian xảo, lén lút, không ngay thẳng, không minh bạch được mô tả “len lén như rắn mồng năm”. Con người vốn muốn sống hòa bình, không làm mất lòng ai, nhưng có lúc buộc phải chọn kẻ mạnh thì lại làm mất lòng bạn, như bà con nói: “Được lòng rắn, mất lòng ngóe”.
Rắn có nọc độc gây chết người thì đã rõ, nhưng con người có lòng dạ độc ác thì nguy hiểm vô cùng, nhân dân chỉ rõ: “Nọc người bằng mười nọc rắn”.
Những kẻ cậy quyền, cậy thế, ức hiếp, bóc lột bề dưới được coi là “Rắn lớn nuốt rắn bé”. Những kẻ có tham vọng quá lớn so với thực lực của mình thì hèn hạ, lăm lăm sẵn sàng hành động khi có cơ hội hại người với các câu: “Rắn con lăm nuốt cá voi”, “Rắn con hăm nuốt cá voi”. Nhái là thức ăn ưa thích của rắn, vậy mà “Rắn đói lại chê nhái què”, nghịch lý hơn với câu giễu cợt: “Cha thiu liu đẻ con hổ mang”. Người ta khinh thường rắn, chuột mà nói “Rắn chuột một ổ” chứ thực ra rắn cũng hay vồ chuột.
Nhân dân mượn chuyện rắn độc để ám chỉ bọn bán nước hại dân “Cõng rắn cắn gà nhà” cũng như việc “rước voi về dày mả tổ”; gọi những ông sư không chính trực, không chuyên tu đạo là “Sư hổ mang”; gọi kẻ thâm độc, quỷ quyệt là “Đồ rắn ráo”, “Mắt rắn ráo” “Mắt trợn rắn ráo”, “Mặt trơ rắn ráo”. Người “Khẩu Phật tâm xà” là người ngoài miệng thì nói lời tử tế mà trong bụng thì độc ác, mang tâm địa của rắn độc, chỉ “tử tế ở lỗ miệng”, có khác gì câu nói của người Tày: “Dạ rắn, miệng đèo bồ cơm”.
Thành ngữ, tục ngữ về loài rắn không nhiều như các con vật khác trong hệ thống 12 con giáp, cũng ít có lời ngợi ca, xưng tụng. Tuy nhiên, những kinh nghiệm cảnh giác về loài rắn, kinh nghiệm đánh bắt rắn, kinh nghiệm đánh giặc theo các thế trận đánh rắn là những bài học bổ ích, thiết thực. Với phương pháp ẩn dụ, so sánh, ví von, nhân dân còn mượn loài rắn để bày tỏ thái độ chế giễu, phê phán những thói hư tật xấu của con người, mang ý nghĩa khuyên bảo và giáo dục sâu sắc.
H.V.Q