Giáo dục Mỹ thuật- Đời sống Mỹ Thuật- Dân trí Mỹ thuật: Nhìn lại đối thoại

Nhà nghiên cứu phê bình Mỹ thuật: Lê Quốc Bảo

Giáo dục mỹ thuật- đời sống mỹ thuật- dân trí mỹ thuật luôn là một quan hệ biện chứng sinh ba. “Giáo dục mỹ thuật là nhằm xây dựng một đời sống thẩm mỹ ngày một tốt đẹp hơn và từ đó không ngừng nâng cao dân trí. Một khi chúng ta nói đến đời sống mỹ thuật thì không thể không nói đến dân trí mỹ thuật, giáo dục mỹ thuật và ngược lại. Chúng luôn là thước đo của nhau nhằm thẩm định giá trị và hiệu quả của giáo dục mỹ thuật cũng như đời sống mỹ thuật và dân trí mỹ thuật. Sự tiếp cận giáo dục mỹ thuật, đời sống mỹ thuật, dân trí mỹ thuật từ mối quan hệ sinh ba được coi như một quan niệm  và một phương pháp luận nghiên cứu chúng. Trước hết suy cho cùng “Mỹ thuật là nghệ thuật làm đẹp cho đời”, Cái đẹp luôn là “một yêu cầu sống”của con người. Ai cũng có thể thưởng thức cái đẹp, song để hiểu cái đẹp đến nơi, đến chốn thì chẳng đơn giản chút nào. Nhất là cái đẹp trong nghệ thuật khó mà đong đếm.

Đẹp là “một yêu cầu sống” đúng rồi! Đẹp còn là “một quan hệ”. Để hiểu cho được cái đẹp là một yêu cầu sống, một quan hệ, một giá trị, một quan niệm, không thể không thông qua kênh giáo dục nghệ thuật, không thể không thông qua kênh thông tin của các phương tiện truyền thông đa ngành, đại chúng. Có vậy mới hội đủ khả năng đối thoại đa chiều, dân chủ.

Bởi cái đẹp cũng như nghệ thuật luôn là một khái niệm mở. Hôm nay chúng ta định nghĩa, trao đổi, ngày mai chúng ta tiếp tục trao đổi, định nghĩa. Trong tương lai, con cháu chúng ta tiếp tục bàn về cái đẹp và nghệ thuật. Khó thay, chúng không bất biến mà luôn vận động và phát triển với cả lịch sử và thời đại.

Tác phẩm: Đợi- Chất liệu: in Lithorgraphi- Tác giả: Nguyễn Đình Thi

1. Đời sống mỹ thuật

Theo tôi, có thể khẳng định vị trí, vai trò của mỹ thuật trong đời sống xã hội. Ở đâu có đời sống con người, ở đó có nhu cầu mỹ thuật, nhu cầu cái đẹp. Mỹ thuật luôn đi sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống: ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, công tác, thậm chí cả vui chơi, giải trí. Tất cả luôn đòi hỏi một ứng xử đẹp.

Có một sự thực đáng buồn là cả gia đình, nhà trường và xã hội chưa thực sự quan tâm, giáo dục ứng xử đẹp về nhiều lĩnh vực của đời sống thường nhật. Chúng thực sự là cái nền, cái gốc góp phần giáo dục làm người.

Ăn như thế nào cho đẹp?

Như các cụ ta dạy: học ăn, học nói, học gói, học mở; ăn trông nồi, ngồi trông hướng… Ngày nay, chúng ta chưa thực sự chú ý dạy con em ngay từ nhỏ ăn như thế nào cho đẹp, mấy chục năm trước lấy nệ thời chiến cho qua. Ngày nay, hòa bình đã gần bốn chục năm, không thể không dạy trẻ ăn sao cho “đẹp”. Trách nhiệm này, trước hết thuộc về gia đình, sau mới đến nhà trường và xã hội.

Mặc như thế nào cho đẹp?

Thông thường, mỗi khi ra đường, đến lớp, đến trường, đến cơ quan… nhất là đi dự lễ hội, ai cũng muốn chọn cho mình bộ quần áo đẹp nhất.

Theo tôi, có một nguyên tắc mặc đẹp là mặc sao để phát huy được vẻ đẹp vốn có của cơ thể và hạn chế những nhược điểm cơ thể mỗi người. Tà áo dài của phụ nữ Việt Nam đã khoe được tất cả đường lượn, đường cong của thiếu nữ. Quan trọng hơn là mặc sao cho tương xứng với tâm hồn của dân tộc. Phụ nữ châu Âu thường mặc váy trễ cổ để khoe bộ ngực trần. Các cụ ta xưa cũng có cách khoe của mình, những chiếc váy yếm đào, yếm sồi, yếm trắng là những màu sắc bắt mắt, hấp dẫn trong bộ quần áo mớ ba, mớ bảy. Đó là một cách khoe kín đáo, duyên dáng của phụ nữ Việt Nam, tương xứng với tâm hồn cao đẹp của dân tộc.

Ở như thế nào cho đẹp?

Các cụ ta xưa có một triết lý sống “Thương gia hạ điền”, trên nhà, dưới ruộng vườn. Sống gắn bó mật thiết với thiên nhiên. Các công trình kiến trúc cổ như đình, chùa thường đặt trong một không gian hoặc một thế núi hay thế sông, trước cánh đồng làng… chan hòa với thiên nhiên, mây trời, sông nước, nắng gió…  Một khi chúng ta sống ở những ngôi biệt thự, chung cư cao tầng thì chỉ còn cách đưa cây xanh vào các ban công, cửa sổ, phòng khách… chỉ gợi được đôi chút về lối sống của dân tộc luôn gắn bó với thiên nhiên mà thôi. Làm sao thú vị bằng ngôi nhà tranh ba gian hai chái, xung quanh là vườn tược, ao cá, bao quanh bởi lũy tre làng. Ngày nay, không ít người đã có nhà vườn để nghỉ cuối tuần, những căn thiệt thự đầy đủ tiện nghi, phù hợp với sở thích từng người, từng gia đình mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Tất nhiên không phải không có những căn nhà còn lộ rõ sự lố bịch, ngoại lai, khoe của…

Tôi mới điểm được 3 lĩnh vực của đời sống mỹ thuật, còn các lĩnh vực khác trong đời sống mỹ thuật chắc phải bàn vào dịp khác. Song chỉ 3 lĩnh vực thôi mà đã có nhiều bức xúc, bất cập chưa phù hợp với tâm hồn Việt.

Gia đình, nhà trường, xã hội không thể không thường xuyên quan tâm giáo dục mỹ thuật: ăn đẹp, mặc đẹp, ở đẹp và nhiều lĩnh vực khác của đời sống mỹ thuật.

2. Dân trí mỹ thuật!

Dân trí mỹ thuật là do giáo dục mỹ thuật mà có. Nó cũng có nhiều hình thức giáo dục, nhiều mức độ khác nhau từ tự học, tự giáo dục đến giáo dục theo các hệ thống đào tạo trường lớp.

Dân trí mỹ thuật là thước đo đời sống mỹ thuật, nó không quá trừu tượng mà được thể hiện sinh động trong đời sống mỹ thuật.

Cái thú chơi tranh vào mỗi dịp tết cổ truyền là một phong tục đẹp có truyền thống lâu đời. Từ thế kỷ 15 tranh khắc dân gian còn có tên gọi là tranh tết. Mỗi tết cổ truyền đều tương ứng với 1 trong 12 con giáp, tương ứng với tuổi đời của mỗi người, đậm triết lý nhân sinh phương Đông.

Các dân tộc ít người, dù có không biết đến khái niệm mỹ thuật, không có điều kiện được học tập nhưng lại tạo nên một bản sắc riêng về nghệ thuật trong trang trí, trang phục thổ cẩm đã thực sự làm phong phú tinh hoa nghệ thuật trang trí các dân tộc Việt Nam. Thú vị hơn là họ cứ làm đời này sang đời khác, hầu như các họa tiết trang trí đều quy thành hình kỷ hà. Đối với những ai học mỹ thuật muốn có một bố cục tốt, một hình tượng nghệ thuật đẹp, khi mới bước chân vào trường thường được các thầy dạy phải quy chúng thành hình kỷ hà trong xây dựng bố cục và hình tượng nghệ thuật. Hai con đường tìm đến chân lý đẹp- hình kỷ hà- trái chiều nhau.

Dân trí mỹ thuật không ngừng phát triển, nâng cao cùng với lịch sử dân tộc và thời đại, cùng với đời sống mỹ thuật mà chúng ta đang sống ở thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Cái thú chơi tranh của dân tộc không dừng lại vào mỗi dịp Tết cổ truyền của dân tộc: Trong một dịp làm chương trình truyền hình: “Cái thú chơi tranh…” với Ban Văn nghệ- Đài Truyền hình Việt Nam, tôi đã chứng kiến nhiều ngôi biệt thự, nhà chung cư cao tầng không chỉ treo một vài bức, có nhà tới hàng chục bức tranh… Công chúng yêu mỹ thuật thường xuyên tiếp xúc với tác giả, tác phẩm qua các triển lãm cá nhân và nhóm tác giả, nhất là các tác giả trẻ diễn ra liên tục. Nếu như trước đây các danh họa Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liêm, Nguyễn Sáng phải vào độ tuổi 70 Hội Mỹ thuật Việt Nam mới tổ chức cho mỗi tác giả một triển lãm cá nhân. Ngày nay triển lãm mỹ thuật khu vực và giải thưởng hàng năm của Hội Mỹ thuật Việt Nam đã thực sự đưa tác giả, tác phẩm đến các vùng sâu, vùng xa trên khắp mọi miền đất nước. Rồi các trại sáng tác điêu khắc quốc tế đã mở ra ở hơn 10 tỉnh thành. Những vườn tượng đã tô điểm cho không gian kiến trúc đô thị. Đối thoại trực tiếp với tác phẩm, tác giả là một hình thức nâng cao dân trí mỹ thuật tốt nhất.

Các lễ hội làng như ở đồng bằng Bắc Bộ, cồng chiêng Tây Nguyên, lễ hội dân tộc Chăm đều nổi trội những sắc màu riêng: đỏ- đen Tây Nguyên, đỏ- vàng đồng bằng Bắc Bộ, đỏ- trắng dân tộc Chăm. Đó là những nét tinh hoa của mỹ thuật truyền thống, đậm bản sắc dân tộc, góp phần giáo dục mỹ thuật và nâng cao dân trí mỹ thuật.

Trong bài viết nhỏ này, tôi mới điểm đôi nét về dân trí mỹ thuật, còn nhiều bất cập đặt ra cho giáo dục mỹ thuật.

3. Giáo dục mỹ thuật!

 Chính phủ vừa phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục năm 2011- 2020. Phải đổi mới căn bản và toàn diện, trong đó có giáo dục mỹ thuật.

Trước hết, cần nhìn nhận rằng: giáo dục nghệ thuật nói chung và giáo dục mỹ thuật nói riêng cũng như dạy làm người. Giáo dục nghệ thuật là hình thức giáo dục mang tính toàn diện, nó hội đủ khả năng phát huy thẩm mỹ và tính nhân văn.

Đặc trưng của giáo dục nghệ thuật nói chung, mỹ thuật nói riêng là bằng con đường tình cảm. Cảm thụ cái đẹp trong nghệ thuật là một hình thức nhận thức. Một hình thức tự giáo dục bị chinh phục bởi cái đẹp của nghệ thuật. Tự nguyện trở thành ‘tù binh” của nghệ thuật cho nên có sức sống bền bỉ nhất và tác động đến lối sống của mỗi người. Tất nhiên, giáo dục nghệ thuật có hai mặt của nó “tiếp xúc với tác phẩm đẹp thì tốt, tiếp xúc với tác phẩm xấu thì khó nên người”.

Giáo dục mỹ thuật có tính đặc thù của nó. Mỹ thuật là nghệ thuật thị giác, trăm nghe không bằng một thấy. Chỉ có đối thoại trực tiếp với tác giả, tác phẩm mỹ thuật hay thông qua các phương tiện nghe nhìn đại chúng tiếp xúc với tác giả, tác phẩm đó là con đường giáo dục nhận thức mỹ thuật hiệu quả nhất, con đường trực quan sinh động.

Danh họa Tô Ngọc Vân có viết “học hay không học”, mở ra cuộc tranh luận thẳng thắn trên báo Văn nghệ thời kháng chiến 9 năm đã khẳng định vai trò giáo dục mỹ thuật. Ông ghen tỵ với các nhà văn được sử dụng ngôn ngữ dân tộc trong đời sống thường nhật để sáng tác, còn họa sĩ phải dùng tiếng nói “hình sắc” là ngôn ngữ đặc thù của mỹ thuật. Cứ tưởng là cụ thể dễ hiểu… song, chẳng đơn giản chút nào. Ngay như một bức tranh phong cảnh đẹp về đồng quê Việt Nam cũng không thể lấy tiêu chí “trời xanh, mây trắng, lúa vàng” để thẩm định cái đẹp trong tranh. Hãy xem những bức tranh sơn mài đẹp, trong tranh trời, đất, non nước… có khi là sơn son đỏ chót, có khi là sơn then đen ngòm… Rồi còn nhiều chất liệu khác đã thực sự làm phong phú hình thức nghệ thuật.

Thông thường người ta xem tranh theo “cái thấy” không giống “cái thấy thì không đẹp”. Danh họa Picasso đã nói “Tôi vẽ theo cái hiểu, chứ không vẽ theo cái thấy”, “Tôi vẽ cùng với tự nhiên, chứ không vẽ theo tự nhiên”. Ông đã khẳng định vai trò của “cái hiểu”, vai trò của chủ thể sáng tạo.

Phải hiểu ngôn ngữ mỹ thuật mới sáng tác, thẩm định, hưởng thụ mỹ thuật tốt, phải bắt đầu từ những bài học vỡ lòng về mỹ thuật. Ngay như tranh, ảnh đều là nghệ thuật thị giác, nghệ thuật không gian. Vậy tranh khác gì ảnh?

Tranh chiếm không gian lồi, họa sĩ nhìn trực tiếp tự nhiên hiện thực. Còn ảnh là không gian phẳng, nhìn qua máy ảnh. Cũng vậy, cách chiếm lĩnh không gian khác nhau dẫn đến phân chia các loại hình mỹ thuật: Hội họa chiếm lĩnh không gian 3 chiều trên mọi mặt phẳng, trang trí chiếm lĩnh không gian 2 chiều trên một mặt phẳng, điêu khắc dùng khối chiếm lĩnh không gian 3 chiều. Chưa hết, hội họa còn chia ra nhiều thể loại tranh phong cảnh, tranh chân dung, tranh tĩnh vật, tranh sinh hoạt, tranh lịch sử chiến trận với nhiều chất liệu sơn dầu, sơn mài, lụa, bột màu… Mỗi một thể loại, mỗi một chất liệu đều có ngôn ngữ đặc thù và vẻ đẹp riêng, luôn đòi hỏi người vẽ phải tinh thông ngôn ngữ, chất liệu, kỹ thuật. Điêu khắc, đồ họa, trang trí cũng có nhiều thể loại, chất liệu… Quả thật mênh mông quá!

Học mỹ thuật phải có hệ thống, khổ công như vậy, đến khi sáng tác, cảm thụ thì danh họa Tô Ngọc Vân lại dạy “đẹp tức là cảm xúc mạnh”, “không cần biết đến chuyện bếp núc” đã khẳng định vai trò của con đường tình cảm. Tất nhiên, không thể không học nên hiểu học để rồi quên đi mỗi khi sáng tác, cảm thụ thưởng thức mỹ thuật chủ yếu bằng con đường tự học, tự đào tạo, thường xuyên tiếp xúc với tác giả, tác phẩm tiêu biểu, đặc biệt không được phép lấy “cái thấy” làm thước đo giá trị mỹ thuật đẹp.

Tôi biết năm 2012 đội ngũ thầy cô dạy mỹ thuật ở các trường phổ thông cơ sở đã hiện diện ở các trường huyện, trường xã ở vùng sâu, vùng xa, Tây Nguyên, Tây Bắc- Việt Bắc. Không như trước đây chỉ dừng lại ở các thành phố lớn. Các giáo viên dạy mỹ thuật ở các trường phổ thông đã được nâng cấp có trình độ đại học sư phạm mỹ thuật, một đội ngũ đông đảo thầy cô ở cơ sở được coi là cái gốc, cái nền góp phần xây dựng đời sống mỹ thuật và nâng cao dân trí mỹ thuật. Một thành tựu của giáo dục mỹ thuật. Tất nhiên còn nhiều bất cập về đội ngũ, chương trình, sách giáo khoa và nhất là phương pháp giảng dạy mỹ thuật cho tuổi thơ. Không thể không đổi mới và cách tân…

Đã đến lúc chúng ta cần phổ cập và nâng cao thưởng thức mỹ thuật thường xuyên hơn. Phải biết tận dụng các phương tiện khoa học nghe nhìn làm công cụ giáo dục mỹ thuật. Bài viết này đã đặt ra một vấn đề quá lớn, vượt tầm của một người nên tôi mong được đối thoại rộng rãi nhằm góp phần xây dựng một mô hình giáo dục mỹ thuật. Đó là thiển ý của người viết.

 

                                                                                                 L.Q.B

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter