Văn học nghệ thuật Yên Bái với việc nâng cao sắc thái văn hoá trong sáng tạo

Nguyễn Hoàng

Cả nước hiện nay có trên 80 cơ quan báo chí văn học, nghệ thuật trong tổng số hơn 850 cơ quan báo chí của cả nước. Tuy nhiên trước thực trạng hiện nay là người đọc ít hào hứng với các ấn phẩm báo chí văn nghệ, ta có thể nghĩ đến một vài nguyên nhân cơ bản sau:

Hiện nay ý thức giữ gìn và phát huy sắc thái văn hoá trong sáng tạo VHNT chưa thực sự có chỗ đứng vững chắc trong cộng đồng dân tộc và việc giữ gìn, phát huy đó còn mang tính “bao cấp”, dựa trên sự hỗ trợ của nhà nước là chính mà chưa khơi dậy, phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác của các chủ thể sáng tác.

Ngoài ra việc đầu tư cho hoạt động sáng tạo văn nghệ chưa thực sự cân xứng và việc nhận thức chưa thấu đáo về các giá trị văn hoá dân tộc đã dẫn đến hệ luỵ đó là sự ra đời của những sản phẩm văn hoá “Không giống ai”, không rõ bản sắc dân tộc…

 Thực trạng đó khiến ta băn khoăn, làm thế nào để khi cầm một cuốn báo, tạp chí văn nghệ trên tay, chưa cần xem trang bìa, chỉ lật giở xem qua nội dung bên trong ta phải biết ngay tờ báo, tạp chí đó là của địa phương nào? Và giải pháp nào thực sự hữu hiệu cho việc nâng cao sắc thái văn hoá trong sáng tạo VHNT địa phương giữa thời đại bùng nổ thông tin, tràn lan văn hoá đọc và chuẩn giá trị thẩm mĩ liên tục bị xê dịch?

Trước hết ta cần làm rõ hai cụm từ “Văn hoá” và “sáng tạo văn hoá”. Chúng ta vẫn hiểu văn hoá với hai phạm trù thông thường đó là văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể. Tuy nhiên nhìn nhận một cách sâu sắc thì con người mới chính là một sản phẩm văn hoá đặc biệt. Con người là chủ thể sáng tạo ra văn hoá nhưng chính con người cũng là chủ thể thể hiện văn hoá.

“Sáng tạo” đó là sự không ngừng tìm tòi cái mới nhưng không phải cái mới nào cũng được coi là sáng tạo. Cái mới ấy phải hữu ích. Theo đó “Sáng tạo VHNT” là sáng tạo những tác phẩm mới nhưng phải phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc nói chung và văn hoá từng vùng nói riêng, từ đó sẽ góp phần đưa dân tộc đó, địa phương đó phát triển.

Theo đó việc tìm ra giải pháp nhằm nâng cao sắc thái văn hoá trong sáng tạo VHNT từng vùng suy cho cùng chính là hướng về con người.

Trong thời gian tới để có thể nâng cao sắc thái văn hoá trong sáng tạo VHNT, thể hiện được những tinh hoa văn hóa của vùng đất mình đang sống thì điều đầu tiên và cũng là điều quan trọng nhất chính là chủ thể sáng tạo VHNT. Người sáng tạo VHNT phải thực sự am hiểu về văn hoá địa phương, có năng lực để đưa những am hiểu đó đến với độc giả thông qua các tác phẩm cụ thể. Tự thân những người sáng tạo phải năng học hỏi, nâng cao hiểu biết đồng thời “coi trọng” những người thực sự am hiểu về văn hoá địa phương, từ đó đẩy mạnh việc truyền dạy các giá trị văn hoá, di sản văn hoá từ các nghệ nhân cho các thế hệ trẻ theo hình thức tự phát (người này dạy cho người kia) hoặc chính quy (đào tạo, giảng dạy qua trường lớp), truyền tình yêu bản sắc văn hoá dân tộc cho thế hệ trẻ. Cơ quan thường trực các Hội địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu, sưu tầm văn hoá dân gian; ưu tiên đăng tải những tác phẩm mang đậm dấu ấn văn hóa của mỗi vùng đất, con người, để những phong tục tập quán, văn hoá địa phương luôn là nền tảng, là vốn để người đọc có thể hiểu rõ về những nét văn hoá mang sắc thái riêng biệt của mỗi vùng miền.

Khi đã có những tác phẩm VHNT mang đậm sắc thái văn hoá địa phương thì vấn đề đặt ra là làm thế nào để đến được với công chúng, để việc “nâng cao” đó thực sự có hiệu quả? Ở đây ta nghĩ đến việc thể hiện nét độc đáo riêng của địa phương mình trong sáng tạo VHNT qua những ấn phẩm chuyên biệt. Cạnh đó là những hình thức quảng bá, công bố tác phẩm rộng rãi có tầm quy mô trong nước và ra ngoài thế giới thông qua các cuộc triển lãm, hội thảo, công bố tác phẩm được đầu tư công phu và kỹ lưỡng. Vấn đề cuối cùng vẫn là kinh phí đầu tư cho việc trang bị máy móc thiết bị tác nghiệp của đội ngũ phóng viên, biên tập viên, hỗ trợ kinh phí đi thực tế sáng tác cho các văn nghệ sĩ. Có vậy mới cho ra đời những tác phẩm chất lượng, phản ánh sâu sắc, sinh động đời sống văn hoá của địa phương.

Ý thức rõ điều đó, Hội Liên hiệp VHNT Yên Bái luôn đổi mới trong công tác tham mưu, tổ chức các hoạt động VHNT; Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý, biên tập viên, phóng viên của tạp chí; Chú trọng đổi mới, nâng cao chất và lượng của các ấn phẩm (Tạp chí Văn nghệ Yên Bái, Văn nghệ Yên Bái vùng cao, Trang VHNT Yên Bái điện tử) thông qua các cuộc Hội thảo, tọa đàm; Tập trung tổ chức tốt các cuộc triển lãm tranh, ảnh nghệ thuật, phục vụ hiệu quả nhiệm vụ chính trị tỉnh giao; Chủ động tổ chức các cuộc thi sáng tác văn học, nghệ thuật trong tỉnh; Phối hợp với các Sở ban ngành mở các chuyên mục mới, tổ chức các cuộc thi đạt hiệu quả cao; Luôn chú trọng công tác xây dựng và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ đáp ứng yêu cầu tiếp tục phát triển mạnh mẽ nền VHNT Việt Nam trong thời kỳ mới thông qua việc: Cử các hội viên tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ do Trung tâm bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du tổ chức; Tham gia các trại sáng tác về VHNT do UBTQ Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam tổ chức; Tạo điều kiện cho các Chi hội chuyên ngành đi thực tế sáng tác tại các huyện, thị trên địa bàn tỉnh và ngoài tỉnh như: Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Hà Giang, Ninh Bình… từ đó các văn nghệ sĩ có cảm nhận riêng về cuộc sống, lấy cảm xúc để sáng tác những tác phẩm văn học, vẽ những bức tranh, chụp những bức ảnh thấm đẫm hơi thở cuộc sống, phản ánh một cách chân thực, sinh động cuộc sống con người tại địa phương.

Bên cạnh đó, công tác công bố, giới thiệu, quảng bá tác phẩm được Hội chú trọng thực hiện với nhiều hình thức, phù hợp với từng loại hình VHNT. Hiện nay Hội Liên hiệp VHNT Yên Bái với 3 ấn phẩm đã mở ra các chuyên mục, chuyên ngành đăng tải nhiều tác phẩm tập trung phản ánh văn hoá địa phương qua các thể loại thơ, truyện ngắn, ký, tản văn, nhiếp ảnh, mỹ thuật, âm nhạc. Đặc biệt những tác phẩm song ngữ mang đậm tính dân tộc, trực tiếp đến với bạn đọc là đối tượng dân tộc thiểu số đã phát huy tác dụng tốt. Những chuyên mục như “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, “Yên Bái chung tay xây dựng nông thôn mới”, “Thành phố Yên Bái hướng tới đô thị loại II”, “Đất và người Yên Bái”, “Yên Bái qua ống kính nghệ sĩ”… đã thu hút đông đảo hội viên, cộng tác viên tham gia với nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng, mang đậm dấu ấn vùng đất, con người Yên Bái. Song song với đó, Hội còn tổ chức các hoạt động triển lãm, trưng bày, hội thảo, tọa đàm nhằm giới thiệu tác phẩm của hội viên đến công chúng và người yêu VHNT cả nước. Công tác lý luận, phê bình VHNT có nhiều chuyển biến tích cực. Việc phân tích, đánh giá, định hướng hoạt động sáng tác văn nghệ, nâng cao các giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của VHNT tác động tích cực đến nhu cầu, thị hiếu công chúng đã từng bước được nâng lên, nhằm từng bước phát triển VHNT Yên Bái một cách bền vững. Việc phát triển đội ngũ sáng tác, tăng cường lực lượng trẻ được chú trọng. Hoạt chuyên môn được phát triển thông qua một loạt hoạt động: Tổ chức ngày thơ hàng năm, ngày âm nhạc, nhiếp ảnh Việt Nam; sinh hoạt thơ hàng tháng… với nhiều lượt hội viên tham gia, công bố hàng nghìn tác phẩm VHNT đậm màu sắc Yên Bái.

Với trọng trách hướng bạn đọc đến với các giá trị chân- thiện- mỹ; góp phần ngày một nâng cao mặt bằng văn hóa xã hội; phát huy chức năng của nghệ thuật đó là khám phá, sáng tạo, thể nghiệm, dự báo...; Báo, tạp chí văn nghệ khẳng định vai trò không thể thiếu vắng trong đời sống xã hội. Việc tìm giải pháp để những sáng tạo VHNT mang đậm sắc thái dân tộc trở thành một trong những vấn đề cấp bách. Điều này đỏi hỏi sự chung tay vào cuộc của Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam, chính sách hỗ trợ tạo điều kiện của địa phương và sự nỗ lực của cơ quan Thường trực Hội Văn học nghệ thuật các tỉnh thành để có thể thực hiện tốt các đề án về phát triển VHNT trong giai đoạn tới, để báo chí văn nghệ thực sự gánh vác được trọng trách giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của Nghị Quyết TW5 khóa 8 và đúng tinh thần Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị về việc “Tiếp tục xây dựng và phát triển Văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới”.

N.H

 

 

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter