Bảo vệ và phát huy Nghệ thuật xoè Thái theo công ước UNESCO

ThS. NGUYỄN THỊ HẠNH

Nghệ thuật Xòe Thái là loại hình múa truyền thống đặc sắc gắn liền với đời sống của đồng bào Thái vùng Tây Bắc của Việt Nam trong các lễ hội cộng đồng, tang ma hay trong sinh hoạt hàng ngày… Đến nay, Xòe Thái đã thực sự trở thành tài sản văn hóa, là sợi dây gắn kết cộng đồng không chỉ bởi những đặc điểm độc đáo mà còn được các thế hệ người Thái tiếp tục gìn giữ.

Tại phiên họp Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 16 của UNESCO diễn ra tại Paris (Pháp) vào chiều 15/12/2021, di sản Nghệ thuật Xòe Thái của Việt Nam đã chính thức được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong khuôn khổ các cam kết, với mỗi địa phương lưu giữ di sản cần nêu cao tinh thần, tham gia để bảo vệ và phát huy nghệ thuật Xòe Thái theo Công ước UNESCO. Trong đó phải kể đến các mục tiêu, hoạt động triển khai nhiệm vụ bảo vệ, phát huy di sản Nghệ thuật Xòe Thái ở tỉnh Yên Bái sau khi được UNESCO ghi danh.

1. Công ước UNESCO 2003 và thuật ngữ bảo vệ, phát huy

Hầu hết các nước trên thế giới đều đã thông qua các đạo luật nhằm bảo vệ di sản văn hóa. Kể từ khi thành lập, UNESCO đã hỗ trợ các nước thành viên trong việc bảo vệ di sản văn hóa. Để hỗ trợ các nước thành viên trong việc bảo vệ di sản văn hóa, UNESCO đã xây dựng và thông qua Công ước năm 2003 về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (còn gọi là Công ước UNESCO năm 2003). Công ước UNESCO 2003 đã được thông qua với mục đích: bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể; đảm bảo sự tôn trọng đối với di sản văn hóa phi vật thể của các cộng đồng, các nhóm người và các cá nhân có liên quan; để từ đó đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau trong lĩnh vực này; tạo ra sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế.

Thuật ngữ bảo vệ, phát huy: thuật ngữ bảo vệ safeguarding)- là thuật ngữ mà UNESCO thường dùng trong khoảng hơn 1 thập niên gần đây. Theo Công ước của UNESCO năm 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, khái niệm bảo vệ (safeguarding) có nghĩa rộng hơn thuật ngữ bảo tồn (preservation). Mục 3, Điều 2 của Công ước 2003 ghi rõ: “Bảo vệ là các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hóa, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là thông qua hình thức giáo dục chính thức hoặc phi chính thức cũng như việc phục hồi các phương diện khác nhau của loại hình di sản này”. Như vậy, khái niệm bảo vệ theo quan niệm của UNESCO là rộng hơn bảo tồn và đã phần nào bao gồm cả nghĩa của từ phát huy (1). Thuật ngữ phát huy là một cách diễn đạt bổ sung với khái niệm bảo vệ. Phát huy các giá trị di sản văn hóa không đồng nghĩa với bảo tồn mà nghĩa là mở rộng, làm giàu thêm bản sắc văn hóa, tăng cường giao lưu văn hóa và làm thăng hoa giá trị văn hóa trong bối cảnh đương đại (2).

Trong khuôn khổ các hoạt động bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, mỗi quốc gia thành viên cần phải nỗ lực để đảm bảo khả năng tham gia tối đa của các cộng đồng, nhóm người và cần phải tích cực lôi kéo họ tham gia vào công tác quản lý (3). Vì thế, việc nhận diện, tư liệu hóa, nghiên cứu, lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể “nghệ thuật Xòe Thái” đệ trình UNESCO đưa vào các danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại chính là một biện pháp nhằm nâng tầm quảng bá và bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam lên tầm quốc tế. Đồng thời, qua đó để nâng cao nhận thức, nhất là đối với thế hệ trẻ, về tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể này và hoạt động bảo vệ chúng.

2. Giá trị của di sản nghệ thuật Xòe Thái như tài sản văn hóa chung của cộng đồng người Thái ở Tây Bắc, Việt Nam

Di sản văn hóa nghệ thuật Xòe Thái được hiểu là tài sản văn hóa phi vật thể khi nó thuộc về một nền văn hóa riêng và có vị trí nổi bật, bởi tính nghệ thuật cao và bởi chúng mang nét đặc trưng của nền văn hóa dân tộc Thái ở Việt Nam. Nghệ thuật Xòe Thái sẽ góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa của tất cả các dân tộc và tăng cường sự tôn trọng giữa các quốc gia.

Chủ thể của di sản văn hóa nghệ thuật Xòe Thái là dân tộc Thái. Người Thái ở Việt Nam có vai trò quan trọng, góp phần làm phong phú, đa dạng, sáng tạo trong bản sắc văn hóa dân tộc. Xòe Thái là loại hình múa truyền thống của người Thái có đặc điểm riêng về nguồn gốc và đặc trưng văn hóa, nghệ thuật trình diễn. Xòe được dịch ra theo tiếng Thái ghi trong cuốn Quam tố mương (tức Chuyện bản mường của người Thái đen Tây Bắc) có nghĩa là xe, xòe cổ là xe cáu ké nhằm chỉ một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian tập thể của đồng bào dân tộc Thái. Xòe được thực hành tại các bản của người Thái ở 4 tỉnh Yên Bái, Lai Châu, Sơn La và Điện Biên, trong đó trung tâm của Xòe có thể được coi ở Mường Lò (Yên Bái), Mường So (Lai Châu), Mường Lay và thành phố Điện Biên Phủ (Điện Biên), Thuận Châu, Quỳnh Nhai (Sơn La). Xòe có nhiều hình thái khác nhau, dùng trong sinh hoạt cộng đồng để kết giao bạn bè, làm phương tiện diễn đạt các ý tưởng về cội nguồn và tâm linh. Xòe được trình diễn trong nghi lễ, trong đám cưới, lễ hội, các sự kiện văn hóa của cộng đồng. Xòe có ba loại chính: xòe nghi lễ, xòe vòng, xòe biểu diễn. Nghệ thuật Xòe Thái mang tính tộc người, tính cộng đồng, thể hiện bản sắc của người Thái. Nghệ thuật Xòe Thái đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2014.

Theo số liệu kiểm kê của Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam năm 2018 (4) về các dịp diễn ra múa xòe, 94,9% các thành viên cộng đồng được hỏi cho biết thường xuyên múa xòe trong các lễ cưới và lễ mừng nhà mới; 86,2% thường xuyên múa xòe trong các ngày lễ do chính quyền tổ chức; 70,4% thường xuyên múa xòe trong các dịp lễ hội truyền thống; các dịp lễ khác cũng thường có múa xòe như các sinh hoạt đoàn thể (63,6%); theo lịch sinh hoạt của các câu lạc bộ, đội văn nghệ (60,2%); trong các dịp lễ tiết (54,1%). Tỷ lệ ít hơn trong các lễ cúng truyền thống, chỉ có 12,4% có thường xuyên xòe trong các lễ cúng; 8,4% có xòe trong các nghi lễ vòng đời người; đặc biệt hiếm có xòe trong các lễ tang (hiện nay chỉ còn 3 thôn/ bản thuộc huyện Vân Hồ, Sơn La và 2 thôn/bản thuộc thị xã Nghĩa Lộ, Yên Bái là còn thực hành xòe trong tang ma).

Nghệ thuật Xòe Thái là sự tổng hợp, hòa quyện trong âm nhạc của người Thái (gồm lời hát, nhạc khí và điệu múa). Âm nhạc trong đời sống sinh hoạt của người Thái không thể thiếu tiếng hát, gọi chung là khắp, bao gồm cả hát, hò, ngâm thơ và ca. Nhạc khí của người Thái gồm 3 loại: nhạc gẩy, nhạc hơi và nhạc gõ. Về nhạc gẩy phải kể đến loại đàn tính. Đàn tính có hai dây, dây thanh thể hiện giai điệu, còn dây trầm phần lớn để làm một âm trì tục, hay dây buông. Đàn tính để đệm cho hát múa và để độc tấu. Nhạc hơi thường sử dụng lưỡi lam như đàn môi, pí (sáo, tiêu), kén (khèn, kèn). Bộ gõ thể hiện nhịp điệu của nhạc Thái và điều khiển động tác múa Thái, gồm có chống, chiêng, chũm chọe và nhạc. Trống, chiêng, chũm chọe là bộ ba nhạc khí hòa trộn âm hưởng vào nhau. Trống có 2 loại gồm: Cống - là loại thường dùng hơn, có tiếng đục và vọng gần; Cong - là loại to và dài hơn, có tiếng trong và vang xa. Chiêng bằng đồng, mua ở dưới xuôi, thường dùng hai hoặc ba chiếc. Chũm chọe làm bằng đồng thau. Trống được gõ theo nhịp 2/4, chiêng đệm vào thành tiếng “cùm, kính, coong” hoặc “coong, kính, cùm” hòa với tiếng chũm chọe đập rung liên tiếp tạo nên âm hưởng rộn ràng, lôi cuốn.

Nếu xòe vòng chỉ là múa sinh hoạt thì múa trong lễ Kin pang then là một hệ thống múa lễ thức. Kin pang then được mở khi hoa mạ nở rộ để bà then cúng ma, cầu pháp thuật nhưng cũng là để cầu mùa và mừng hoa. Phát triển hơn một bước là những điệu múa biểu diễn “xé lảng”, “xé pẻn” (múa mộc, múa khiên). Về sau, những điệu múa khăn, múa nón, múa hái rau... đã ra đời, tuy vẫn còn đơn giản, mộc mạc. Điệu “xé cắp” (múa cạm bẫy) mà người múa nhảy ra, nhảy vào giữa hai đòn tre được gõ và sập theo nhịp 2/4 chính là cơ sở của múa sạp nổi tiếng sau này. Trong cuốn Giáo trình Văn học Thái xuất bản tháng 1-1995, của Trường Cao đẳng Sư phạm Tây Bắc (nay là Trường Đại học Sư phạm Tây Bắc), có viết: Năm 1968, Sở Văn hóa Khu tự trị Tây Bắc đã sưu tầm được 36 điệu múa dân gian Thái, trong đó có múa xòe. Điều ấy có nghĩa là ngoài múa xòe, vốn dân vũ Thái còn nhiều điệu múa khác. Như vậy, các điệu múa Xòe Thái phát triển không ngừng từ 3 điệu, hay 6 điệu Xòe Thái cổ ban đầu đã phát triển thành 36 điệu múa xòe biểu diễn như hiện nay và còn phát triển hơn thế nữa. Điều đó làm cho di sản nghệ thuật Xòe Thái vừa phong phú, đa dạng, vừa có bản sắc riêng mà vẫn bảo lưu được tính nguyên gốc.

Giá trị của xòe biểu diễn nói riêng và múa Thái nói chung là điệu múa của người nữ. Người đàn ông Thái không biểu diễn múa, họ chỉ đệm đàn cho múa. Múa Thái không có loại múa tình tiết, mà hầu hết là múa đồng diễn nhiều người. Hầu hết các động tác múa đều có đạo cụ. Động tác gắn bó khá mật thiết với âm nhạc, mỗi bài nhạc phần nhiều chỉ đệm cho một động tác. Điệu múa, điệu xòe, âm nhạc, lời hát đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa, văn nghệ đặc trưng của dân tộc Thái.

3. Cộng đồng người Thái ở tỉnh Yên Bái - chủ thể di sản tham gia vào các hoạt động bảo vệ và phát huy nghệ thuật Xòe Thái theo công ước UNESCO

Nghệ thuật Xòe Thái là tài sản văn hóa cần phải được bảo vệ mọi nơi, mọi lúc, trong mọi điều kiện hoàn cảnh văn hóa tộc người. Trong đó, quan trọng phải kể đến một số hoạt động của chính quyền, ban ngành, cộng đồng người Thái ở tỉnh Yên Bái tham gia để bảo vệ và phát huy di sản Nghệ thuật Xòe Thái sau khi được UNESCO ghi danh (năm 2021).

Mục tiêu của các hoạt động bảo vệ, phát huy:

Bảo vệ và phát huy nghệ thuật Xòe gắn với phát triển kinh tế- xã hội (mũi nhọn là du lịch) với mục tiêu xóa đói giảm nghèo cho cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Yên Bái;

Bảo vệ và phát huy nghệ thuật Xòe gắn với phát triển nguồn nhân lực, phát triển con người toàn diện, bằng hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hoá của cộng đồng;

Bảo vệ và phát huy nghệ thuật Xòe phục vụ nhu cầu tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa cộng đồng, như chương trình “Lễ hội văn hóa - du lịch Mường Lò”.

Nội dung hoạt động bảo vệ, phát huy:

Từ năm 2016, tỉnh Yên Bái chủ trì, phối hợp với những cơ quan chức năng và các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên xây dựng hồ sơ quốc gia Nghệ thuật Xòe Thái trình UNESCO ghi danh tại danh sách DSVH phi vật thể đại diện của nhân loại.

Đến năm 2022, cộng đồng người Thái ở tỉnh Yên Bái đã tích cực tham gia để bảo vệ và phát huy di sản Nghệ thuật Xòe Thái sau khi được UNESCO ghi danh. Thực hiện chương trình hành động như đã cam kết trong Hồ sơ khoa học đệ trình UNESCO; đồng thời, nâng cao nhận thức, sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và của mỗi người dân trong việc bảo vệ nghệ thuật Xòe Thái, cũng như khơi dậy lòng tự hào của các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy thế hệ trẻ quan tâm hơn đến Di sản; nêu cao ý thức và hành động thiết thực để bảo vệ sức sống của di sản văn hóa phi vật thể- nghệ thuật Xòe Thái tại cộng đồng.

Cộng đồng người Thái cùng nhau gánh vác trách nhiệm và có vai trò khác nhau trong việc tổ chức thực hành xòe, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của Xòe Thái. Ông Đỗ Đức Duy, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái cho biết: “… Yên Bái có 6 điệu xòe cổ; Sơn La, Lai Châu, Điện Biên có những sáng tạo riêng khi trình diễn. Dù ở đâu, bà con người Thái đều tôn trọng sự đa dạng đó, không vì sự khác biệt mà thay đổi bản sắc ở cộng đồng của địa phương”[1].

Về phía cộng đồng các bản người Thái ở vùng núi Tây Bắc, từ các đội xòe cấp cơ sở thôn, bản, xã, phường đến đội xòe chuyên nghiệp cấp huyện, tỉnh; từ nghệ nhân múa không chuyên hay nghệ nhân dân gian, ghi nhận sự nỗ lực, đóng góp không biết mệt mỏi của các bà, các mẹ, các cô và tất cả thành viên cộng đồng Xòe Thái, trong việc trình diễn, thực hành, sáng tạo di sản “nghệ thuật Xòe Thái”, phục vụ hữu ích trong quá trình lập hồ sơ như: ghi hình, chụp ảnh và cung cấp thông tin phiếu kiểm kê, phỏng vấn...

Biện pháp tuyên truyền, giáo dục nhằm khuyến khích và tăng cường sự tôn trọng di sản nghệ thuật Xòe Thái ở 4 tỉnh của Việt Nam đã và đang được thực hiện. Bằng việc bảo tồn tại chỗ, kết hợp thực hiện các dự án, chủ trương, chính sách của chính quyền địa phương đối với di sản và mở các lớp truyền dạy tại cộng đồng bản mường người Thái, tiêu biểu phải kể đến hoạt động giáo dục di sản nghệ thuật Xòe Thái ở tỉnh Yên Bái.

Giáo dục di sản nghệ thuật Xòe Thái ở tỉnh Yên Bái

Di sản Nghệ thuật Xòe Thái ở tỉnh Yên Bái tiêu biểu là của cộng đồng tộc người Thái đen ở thị xã Nghĩa Lộ (Mường Lò). Giá trị di sản ấy luôn được duy trì và phát huy trong cộng đồng, mà tiêu biểu là ở lễ hội xòe Mường Lò. Lễ hội nổi bật với sáu điệu xòe cổ (hay được gọi theo tiếng Thái là xé cáu ké) bao gồm: xòe vòng (xé vòng), vòng tròn vỗ tay (ỏm lọm tốp mư), tung khăn (nhôm khăn), bổ bốn (phá xí), tiến lùi (đổn hôn), nâng khăn mời rượu (khắm khăn mơi lảu). Những điệu xòe cổ Mường Lò không chỉ là tài sản riêng của người Thái đen mà đã trở thành di sản vô giá của nhân dân các dân tộc Mường Lò và dân tộc Thái vùng Tây Bắc nói chung. Vì thế, năm 2012, sáu điệu xòe cổ của người Thái ở (Mường Lò) đã được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Năm 2015, nghệ thuật Xòe Thái ở Mường Lò cũng được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Từ năm 2019, thị xã Nghĩa Lộ đã xây dựng được 48 đội xòe nòng cốt với 384 người thuộc 6 lứa tuổi, là hội viên các cấp hội tại 7 xã, phường là: Hội người cao tuổi, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, học sinh mầm non, tiểu học, trung học cơ sở; 2 đội nhạc công nòng cốt gồm 20 người (xã Nghĩa An: 10 người; Trung tâm Văn hóa- Thể thao: 10 người). Hàng năm, vào các dịp lễ kỷ niệm, thị xã Nghĩa Lộ luôn tổ chức các hội thi xòe cấp cơ sở, phong trào này góp phần thu hút đông đảo đồng bào Thái tham gia.

4. Các thách thức đặt ra và một số kiến nghị, đề xuất

Hiện nay, ở một số địa phương của tỉnh Yên Bái nói riêng, bên cạnh những điệu Xòe truyền thống diễn ra trong sinh hoạt cộng đồng thì đã xuất hiện và đan xen những điệu nhảy và âm nhạc hiện đại, ít nhiều đã phá vỡ tính nguyên bản của Nghệ thuật Xòe truyền thống. Cùng với đó là sự biến đổi về âm nhạc, nhiều nơi đã thay thế nhạc truyền thống bằng âm nhạc hiện đại. Thế hệ trẻ khi Xòe thấy rất rõ không thể hiện được động tác nhịp nhàng, tinh tế như những người cao tuổi. Có nhiều điệu Xòe hiện nay chỉ còn đọng lại trong trí nhớ của một số người đam mê, am hiểu về múa và những người cao tuổi, ít khi được thực hành rộng rãi.

Trong đề xuất các phương án bảo vệ và phát huy giá trị di sản Nghệ thuật Xòe Thái, TS Lê Thị Minh Lý, Ủy viên Hội đồng Di sản quốc gia cho rằng: Các biện pháp bảo vệ nghệ thuật Xòe Thái cần tập trung vào sự chuyển giao tri thức và kiến thức, các kỹ năng biểu diễn, chế tác nhạc cụ và thúc đẩy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa các nghệ nhân và những người học nghề. Tôn trọng và củng cố sự tinh tế của một bài hát, các động tác của một điệu múa và các hình thức biểu đạt trong trình diễn Xoè Thái[2].

Tác giả bài viết đề xuất một số kiến nghị như sau:

Các cơ quan chuyên môn, các ban, ngành của tỉnh Yên Bái cần tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng một cách bài bản các điệu xòe cổ của dân tộc Thái qua từng thời kỳ. Tư liệu hóa và phổ biến, truyền dạy trong cộng đồng người Thái, lưu trữ thành những tập tài liệu di sản có giá trị về sau.

Chính quyền và các ban ngành tỉnh Yên Bái cần khôi phục, xây dựng, tạo lập môi trường trình diễn nghệ thuật Xòe Thái gần hơn với âm nhạc truyền thống. Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức đầy đủ, toàn diện cho thế hệ trẻ về giá trị của nghệ thuật Xòe Thái thông qua các hình thức truyền dạy trực tiếp trong cộng đồng.

Chính quyền và các ban ngành tỉnh Yên Bái cần đẩy mạnh các chương trình phối hợp, lồng ghép, triển khai đưa nghệ thuật trình diễn dân gian, trong đó có Xòe Thái vào các chương trình học ngoại khóa của nhà trường.

Ngành Du lịch tỉnh Yên Bái có di sản cần duy trì, đẩy mạnh kết hợp trình diễn nghệ thuật Xòe Thái với du lịch cộng đồng, phục vụ khách du lịch tham gia và trải nghiệm.

Tỉnh Yên Bái cần có kế hoạch và thường xuyên đưa nghệ thuật Xòe Thái vào thực hành trong các sự kiện văn hóa, xã hội trong tỉnh, vừa giúp tuyên truyền, quảng bá di sản, đồng thời nâng cao nhận thức của người dân, cán bộ và du khách cùng gìn giữ và bảo vệ, phát huy di sản.

Tóm lại, nghệ thuật dân gian Xòe Thái là sự chắt lọc tinh hoa của phong tục tập quán mang tính tích cực của nền văn hóa dân tộc. Từ lâu, Xòe Thái đã trở thành món ăn tinh thần, nét văn hóa đặc trưng, là “tài sản văn hóa” chung của đồng bào 20 dân tộc anh em sống trên vùng núi cao Tây Bắc của Việt Nam. Năm 2021, Nghệ thuật Xòe Thái được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại đã góp phần nâng tầm giá trị di sản; qua đó, nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương trong việc tiếp tục lưu giữ, bảo tồn, phát huy các giá trị đặc sắc trong vốn văn hóa truyền thống của cộng đồng người Thái nói riêng, tính đa dạng, đậm đà bản sắc của văn hóa Việt Nam nói chung. Đồng thời, đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với việc phát triển loại hình nghệ thuật này, để Xòe Thái trở thành một sản phẩm du lịch đặc sắc, thu hút ngày càng nhiều du khách đến với vùng văn hóa Tây Bắc của Việt Nam nói chung.

N.T.H

________________
1, 2. Đỗ Thị Thanh Thủy, Văn hóa ven biển Nam Trung Bộ - Bảo vệ và phát huy giá trị, Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu KH&CN cấp Bộ, 2016, tr.18, 19.

3. Điều 15, Công ước Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể 2003unesco.org.

4. Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Báo cáo kiểm kê di sản Nghệ thuật Xòe Thái tại 4 tỉnh: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái.

Tài liệu tham khảo

1. Cộng đồng Thái - Kadai Việt Nam - Những vấn đề phát triển bền vững, Hội nghị quốc gia Thái học Việt Nam lần thứ VII- Lai Châu 2015, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2015.

2. Lò Thị Huân, Múa xòe nét văn hóa đặc trưng của người Thái, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 10, 2006, tr.97-99.

3. Vũ Khánh, Người Thái ở Tây Bắc, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2008.

4. Lâm Lô Tộc, Xòe Thái (Công trình này chủ yếu dựa vào kết quả những cuộc khảo sát tại Phong Thổ), Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1985.

 



[1] Nghệ thuật Xòe Thái chính thức được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. https://www.yenbai.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-tin-tuc.aspx?ItemID=27660&l=Tintrongtinh. Ngày 16/12/2021.

 

[2] Hà An (2019). Bảo vệ và phát huy giá trị Nghệ thuật Xòe Thái trong xã hội đương đại: Gìn giữ hồn cốt văn hóa của người Thái. https://bvhttdl.gov.vn/bao-ve-va-phat-huy-gia-tri-nghe-thuat-xoe-thai-trong-xa-hoi-duong-dai-gin-giu-hon-cot-van-hoa-cua-nguoi-thai-20191007134441671.htm.  Ngày 07/10/2019.

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter