Đến với văn học trong mở đầu thế kỷ XXI qua những thế hệ viết

 Vanvn- Nếu khoảng cách là một thập niên, hoặc một con giáp (12 năm) làm nên một thế hệ viết thì, theo cách tính của tôi, văn học Việt Nam sau 1945 cho đến nay đã chứng kiến sự xuất hiện và tiếp nối của hơn 5 thế hệ viết. Đó là các thế hệ: tiền chiến, chống Pháp, chống Mỹ gắn với Đổi mới, rồi chuyển qua Hội nhập với mốc lớn là năm 1995 hoặc năm 2000.

GS Phong Lê

Dưới đây là 3 nhận xét sơ bộ.

1. Bất cứ thời nào của sự phát triển văn học kể từ sau 1930 (năm chính thức mở đầu thời hiện đại của lịch sử văn chương Việt), các lực lượng trẻ (lứa tuổi từ ngoài 20 đến trên dưới 30) cũng đều đóng vai trò chủ lực – làm nên gương mặt chung của đời sống văn học qua từng thập niên.

Hiện tượng đó gần như là một quy luật.

Thời 1930 – 1945 gồm hầu hết các tên tuổi tiêu biểu trên cả 3 giòng: hiện thực, lãng mạn và cách mạng – đến 4 tác giả kết thúc là Tố Hữu, Tô Hoài, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh (cùng sinh năm 1920).

Những tập thơ làm nên vinh quang bậc nhất của các tác giả như Thơ thơ của Xuân Diệu, Lửa thiêng của Huy Cận, Nước giếng thơi của Nguyễn Bính, Điêu tàn của Chế Lan Viên, Từ ấy của Tố Hữu… tất cả đều được thực hiện ở tuổi 20.

Cũng là tuổi 20 Nguyên Hồng cho in tiểu thuyết Bỉ vỏ.

Tuổi 25 của Vũ Trọng Phụng là tuổi cho ra mắt cùng lúc những tiểu thuyết tràn ngập sự đời và có giá trị để đời như Giông t và Số đỏ. Còn tuổi trên dưới 30 của Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao là tuổi làm nên những tên sách sáng danh văn học hiện đại: Vang bóng một thời, Vũ Như Tô, Chí Phèo, Sống mòn.

Ấy là nói văn học trong xã hội bán phong kiến – thuộc địa trước 1945.

Văn học sau 1945, trong chống Pháp, xuất hiện từ trước sau thập niên 1950, cùng với Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài thuộc thế hệ tiền chiến là các tác giả: Trần Đăng, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Trần Dần, Hồ Phương, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc…

Văn học chống Mỹ, với thế hệ xuất hiện từ sau 1960 ở tuổi ngoài 20 và trên dưới 30 như Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Phan Thị Thanh Nhàn, Vũ Quần Phương, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo…

Những tên bài, tên sách hay nhất trong và sau hai cuộc chiến tranh gần như hầu hết đều đã được thực hiện ở những tên tuổi đã nêu trên…

Ấy là nói văn học trong chiến tranh – những hơn 30 năm, hoặc đúng ra là ngót 40 năm; bởi ngoài chống Pháp và chống Mỹ còn là chiến tranh ở hai đầu biên giới cũng khốc liệt và hy sinh không kém, suốt từ 1979 đến hết thập niên 1980, mà do tình thế lịch sử – cuộc chiến giữa hai phe, khiến cho cả một thời gian dài ta không (hoặc không được phép) nói đến.

Từ một lược kể như trên để nói đến một cuộc đồng hành rất ngoạn mục gồm hơn ba thế hệ viết: thế hệ tiền chiến, thế hệ chống Pháp và thế hệ chống Mỹ, gối sang thời Đổi mới – một cuộc đồng hành đã để lại cho văn học hiện đại từ sau 1945 đến nửa đầu thập niên 1990, những câu, những bài, những tập thơ, những áng văn hay nhất về lòng yêu nước và yêu dân, về chủ nghĩa anh hùng và sự hài hòa gắn kết giữa cái chung và cái riêng của Con người Việt và Tổ quốc Việt, trước một chuyển động dữ dội và những thử thách khốc liệt nhất của lịch sử. Một cuộc đồng hành có điểm tựa vững chắc nhất từ trong lịch sử – “Đội ngũ ta dài suốt bốn nghìn năm”, và từ đời sống:

Lớp cha trước, lớp con sau

Đã thành đồng chí chung câu

quân hành

2. Văn học thời Đổi mới, sau một đội ngũ đóng vai trò chuyển tiếp rất nhạy cảm và dũng cảm, và cũng rất kịp thời, mà đóng góp đã rất được khẳng định như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Nguyễn Trọng Oánh, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Nguyễn Quang Thân, Chu Lai, Thái Bá Lợi, Nguyễn Trọng Tạo, Lê Minh Khuê, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Dạ Ngân, Phạm Thị Hoài…, là các thế hệ mới chủ yếu sinh từ thập niên 1960.

Thuộc thế hệ 6X, đây là lực lượng đông đúc nhất, theo tôi, hiện vẫn còn đang đóng vai trò quan trọng của đời sống văn học hôm nay. Họ rất dồi dào năng lượng, và có năng lực viết về mọi đề tài, và đặc biệt họ có điều kiện để gắn bó mật thiết với sự sống hôm nay, một hôm nay mang tên Hội nhập (từ 1995), rồi Toàn cầu hóa và Cách mạng 4.0 (sau 2000) cùng gối vào nhau, gắn kết với nhau, mà những người như tôi – thế hệ cuối 3X, dẫu có gắng gỏi đến mấy cũng chỉ có thể là người đồng hành, ngắm nhìn và suy tư trong tư thế không thể hoặc khó được xem là người đại diện hoặc trong cuộc!

Sau 10 kỳ Đại hội, ở thời điểm hôm nay, Hội Nhà văn chúng ta hiện có trên 1000 hội viên. Nhưng đừng nên nhìn vào Danh sách trên 1000 hội viên để đánh giá. Bởi các thế hệ thuộc 3X, 4X.. cho đến 5X (tất cả đều đã đến ngưỡng tuổi 70 “xưa nay hiếm”) số lớn đều đã đạt các đỉnh cao, hoặc đã qua thời sung sức, hoặc đã ngừng viết từ lâu. Văn học mở đầu thế kỷ XXI – hoặc văn học hôm nay, sau gần 30 năm hội nhập, nếu cần trông cậy vào tuổi ngoài 20, hoặc trên dưới 30, như kinh nghiệm của tất cả các giai đoạn trước đã chứng tỏ, thì đó phải là thế hệ sau 8X, mà số lớn, rất lớn đều chưa, hoặc không tham gia Hội Nhà văn. Đây là điều cần suy nghĩ, để có cách cải tiến sinh hoạt của Hội Nhà văn, cho thích hợp với yêu cầu của tình thế mới.

Cần lưu ý thế kỷ XX là thế kỷ diễn ra nhiều chấn động, chuyển động dữ dội, qua các mốc lịch sử 1930 và 1945, 1945 và 1975, 1986 và 1990, 1995 và 2000. Có nghĩa là càng về sau, càng ngắn, càng gấp gáp. Chưa bao giờ trong lịch sử và lịch sử văn học dân tộc lại diễn ra nhiều sự kiện lớn, vừa dồn dập, vừa gối vào nhau theo một gia tốc nhanh gấp như thế.

Còn nếu tính từ 2000 trở đi thì đó là một chuyển động gần như ngoài sức tưởng tượng và bao trùm tất cả – để đưa dân tộc thoát ra khỏi mọi phong bế (của xã hội thuộc địa – phong kiến trước 1945, của chiến tranh – 40 năm, của tình thế hai phe – 40 năm) mà hội nhập vào nhân loại trong bối cảnh Toàn cầu hóa và Kỷ nguyên thông tin cùng Cách mạng 4.0.

Tình thế mới này của lịch sử càng đòi hỏi văn học phải chuyển đổi bằng sức vóc của các thế hệ trẻ; chứ không phải tuổi trung niên, hoặc tuổi … già, bởi phải trẻ mới có được những tiềm năng mới, những dũng cảm mới, những giác quan mới trong bám sát và theo kịp thời cuộc, để đưa dân tộc vào một cuộc hành trình lớn với nhân loại.

3. Như đã nói ở mục 1, một đặc điểm khá nổi trội ở đội ngũ nhà văn ta, trong suốt một thời dài, từ sau 1945 cho đến cuối thập niên 1990, đó là sự đồng hành của nhiều thế hệ, từ 3X đến 7X. Không kể Tô Hoài, mất ở tuổi 95, mới ngừng viết từ 2014, thì đó là thế hệ 3X, gồm Hồ Phương, Xuân Khánh, Ma Văn Kháng, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Khắc Phê…; rồi 4X như Đỗ Chu, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Vương Trọng, Thái Bá Lợi, Tô Nhuận Vỹ, Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Trần Nhuận Minh, Lê Minh Khuê, Dương Hướng, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Văn Thọ…. Còn từ 5X trở đi thì xem ra chưa phải đã hết vai trò là đội quân chủ lực – gồm từ Khuất Quang Thụy, Đỗ Phấn, Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa…, qua Hồ Anh Thái, Thùy Dương, Tạ Duy Anh, Y Ban, Thu Huệ, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh… để đến với 7X như Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Bích Lan, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Xuân Thủy, Phan Thúy Hà… Đông đảo, kết nối, ít có khoảng trống, hoặc đứt quãng, đó là điều mừng; nhưng cũng cần phải biết, phải xác định thế hệ nào là chủ công, trong quan hệ với thực tại – tức là cuộc sống đương đại, mà việc xác định đội ngũ này lại rất cần trở lại mục 1 tôi đã nêu trên. Có nghĩa là phải tập trung mối quan tâm cho các thế hệ từ sau 8X trở đi, nếu nhìn vào các mùa màng như đã diễn ra trong thế kỷ XX. Nếu chọn Vi Thùy Linh, sinh năm 1980 làm mốc, thì đội ngũ này là rất đông đảo, có tuổi nghề đã trên dưới 30 năm; có không ít tên tuổi đã nổi đình đám cả rồi.

Lực lượng trẻ, ở tuổi từ 20 đến trên dưới 30, dẫu thực tiễn thời cuộc có muốn hoặc không muốn thì tự họ vẫn đủ sức cáng đáng sứ mệnh nghề nghiệp, như kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy, và như tâm thức dân gian đã tổng kết: “Tre già măng mọc”, “Trẻ cậy cha, già cậy con”, “Con hơn cha là nhà có phúc”. Nếu vẫn cần có một (hoặc nhiều) Hội nghề nghiệp, có chức năng như Hội Nhà văn trong tương lai thì Hội cần đầu tư nhiều công sức cho họ, trên tất cả các phương diện của bản lĩnh và bản sắc cá nhân. Bản lĩnh – đó là lý tưởng sống và hoài bão nghề nghiệp tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cả một thế hệ. Còn bản sắc – đó là cái riêng của từng người. Cả hai cần bổ sung cho nhau, chứ không bài trừ nhau. Cần tạo mọi điều kiện cho các thế hệ trẻ đi tìm và khẳng định cho được cái riêng, và cái khác (bởi văn học cần sự đa dạng, và tôn trọng cả tính sáng tạo); nhưng đó là cái riêng không quay lưng hoặc xa lạ với cái chung; là cái khác nhưng không biệt lập hoặc đối trọng với cái giống, tức cái chung, cái cộng đồng – nó là khát vọng chung của Nhân dân, của Dân tộc. Còn Nhân dân là ai, và Dân tộc là ai thì tôi tin câu trả lời của mọi người viết chân chính, đích thực sẽ không khác nhau là mấy!

***

Cuối cùng, xin có một đôi lời tự sự về bản thân. Tôi thuộc thế hệ cuối 3X, cho đến nay đã có thâm niên nghề nghiệp trên 60 năm. Từ buổi đầu vào nghề, tôi đã có hai bậc thầy lớn, đó là Hoài Thanh – tác giả Thi nhân Việt Nam – chọn và bình 45 nhà thơ; và Vũ Ngọc Phan – tác giả Nhà văn hiện đại – chọn và nghiên cứu 79 nhà văn. Cả hai đều là người đồng hành, là đại diện đáng tin cậy của hơn một Thế hệ Vàng của văn học Việt Nam hiện đại, thế hệ làm nên mùa gặt ngoạn mục 1930-1945. Thế nhưng, sau 1945, Hoài Thanh thôi không tiếp tục đối tượng quen thuộc mà chuyển sang những đối tượng khác – đó là thơ ca quần chúng, là thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu và những người viết mới, những cây bút trẻ như Giang Nam, Thanh Hải, Lê Anh Xuân, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Duy. Còn Vũ Ngọc Phan thì dứt khoát chuyển sang văn học dân gian để trở thành chuyên gia hàng đầu về tục ngữ, ca dao, dân ca Việt. Là học trò của các vị tôi đã rất say mê và ngưỡng mộ những bậc thầy và bậc đàn anh đi trước mình; và không bỏ lỡ các cơ hội để xây dựng tình bạn với những người thuộc cùng thế hệ mình trên cả hai lĩnh vực sáng tác và nghiên cứu – phê bình, trong một đồng hành cùng họ từ đầu thập niên 1960 cho đến cuối 1990. Có nghĩa là một hành trình trên dưới 40 năm. Còn với các thế hệ viết mới sinh ra từ sau 1980, những người đã và đang làm chủ đàn văn thế kỷ XXI thì thật sự là vất vả trong gắng gỏi để có được chút ít tâm thế và vị thế của người đồng hành, chứ không dám nói là người trong cuộc, hoặc người nhập cuộc.

Theo Vanvn.vn

 

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter