HỒN QUÊ TRONG TẢN VĂN HÀ NGỌC

THẾ QUYNH

Đã lâu văn chương Yên Bái mới thấy xuất hiện tập tản văn của cây bút trẻ: Nguyễn Thị Thu Hương (Bút danh Hà Ngọc). Hai mươi tám đoản văn, hồn quê cứ cất lên theo lời “Dế gọi mùa yêu” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn- năm 2020).

Tự ví “Tôi chỉ là con dế mèn bé nhỏ, kiễng chân trong chiếc tổ nhỏ ở thảm cỏ ven hồ, cri cri… cất lên lời tình tự, lặng lẽ yêu thương muôn loài”, Hà Ngọc bộc lộ cảm xúc của mình về bao nhiêu chuyện: Nào là vợ chồng nhà Cạp dẫu đôi khi bất đồng trong cuộc sống mà vẫn thương yêu nhau; chuyện về một phụ nữ nghèo người dân tộc thiểu số nơi bệnh viện được an ủi bằng sự cảm thông cùng lời “nói dối tế nhị”; chuyện con chó Bông Manly thân thiện mà dũng cảm; cơn bão trong ký ức lúc đưa ngoại đi bệnh viện Hà Nội; tâm sự với người thương khi đường chia đôi ngả… Nhiều và sâu sắc vẫn là hình ảnh thôn quê nơi lưu giữ bao kỉ niệm êm đềm về tuổi thơ và những người thân quen “Tôi cứ dìu dặt câu Then, men bờ sông Chảy, nhấm nháp cảm giác chộn rộn, đau đáu, nao nao, trở về vùng đông Hồ Thác. Nơi ấy, có những rưng rưng hoài niệm của bao đoản khúc thuở thiếu thời” (Những chiếc bánh chưng gói cả mùa xuân). Vốn nằm trên đất Yên Bình huyền thoại, Hồ Thác Bà, nguồn dự trữ thủy năng của Nhà máy thủy điện Thác Bà- đứa con đầu lòng của thủy điện Việt Nam có trên 1200 hòn đảo lớn nhỏ được ví như Hạ Long thu nhỏ. Nơi đây có Động Thủy Tiên, có Núi Cao Biền với mặt nước yên bình như tự thuở hồng hoang “Nhìn những đàn cò cứ thản nhiên bay, đậu, không màng tới sự có mặt của con người, nghe tiếng cá quẫy lóc bóc, ngửa mặt nhìn những tổ chim san sát trên đầu, bất giác tôi thấy mình biến thành cậu bé An trong Đất rừng Phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi” (Hương tràm Tây Bắc). Tuổi thơ của cô gái xa quê đi học, làm nhiều nghề kiếm sống và nay đang là tiếp viên của Hãng hàng không Bam Boo Airways gắn bó máu thịt cùng Hồ, cùng dòng sông Chảy. Nào là Thác Bà, Thác Ông và rừng lim “ngày ngày rì rào khúc tráng ca của đại ngàn xanh thắm”; nhất là Bãi Giữa “thản nhiên ghềnh đá, thản nhiên bờ cát, dạo ấy là thiên đường, là nơi trú ngụ của cơ man cò vạc, đa đa và bườm bượp cá tôm”. Bãi Giữa cũng là nơi vui chơi và khám phá thiên nhiên của lũ trẻ “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò”. Nhưng rồi tác động con người cũng làm biến dạng tự nhiên để lại trong tâm trí đứa con xa quê sự nuối tiếc “Mỗi lần trở về, lặng lòng nhìn, thấy Bãi Giữa sau kỳ xả lũ chỉ còn nhỏ tí, loe hoe cây cối, thấy vạt cát xưa bị người ta khai thác gần hết, nhìn dòng sông đang cố kiết bền bỉ đắp bồi bù lại, không sao nén nổi những rưng rưng” (Bãi Giữa, rưng rưng miền nhớ). Người Việt Nam khi ly hương thường hay nhắc đến “cây đa, bến nước, sân đình”. Cái hồn Việt ấy dường như cũng đang chảy trong huyết quản Hà Ngọc để nhớ về một cây đa Bảo vừa bị bão giật ngã “Nghe người lớn nói ngay từ khi còn nhỏ họ đã thấy nó to như bây giờ rồi. Bao năm nay nó vẫn thế, vẫn đường hoàng đứng cạnh dòng những cánh tay vạm vỡ về nhiều phía như muốn ôm trọn mảnh đất này vào lòng” (Cây đa Bảo). Rồi cây Tếch kiên cường trong lũ dữ cũng vời vợi theo nỗi buồn của một kẻ tha hương trong hành trình tìm Phố “Dòng lũ lớn không bứt được nó ra khỏi lòng đất mẹ. Nó đã chết. Nhưng cho đến chết vẫn kiên cường bám trụ, không chịu chia lìa” (Tìm Phố). Thì ra cây đa Bảo, cây Tếch cũng chỉ là cái cớ, mượn sự vật mà gửi gắm nỗi niềm. Bởi vì quê hương là vị quê, là hương tràm, là hương hoa bưởi Đại Minh, loại cây đặc sản của vùng đất này theo mãi bước chân “Tôi đi như bao người xa quê khác, gói trong tim một nhành bưởi đương hoa” (Ngần trắng tháng Ba).

Đối với quê nội, quê ngoại cây bút trẻ này cũng có những kỉ niệm không kém phần sâu nặng. Đó là một Âu Lâu quê nội bên bờ sông Hồng ngầu ngầu sắc đỏ, lớp phù sa mầu mỡ nuôi lớn bao nhiêu đậu đỗ lạc vừng, bao ngô khoai bầu bí. Nhất là Ngòi Lâu nổi tiếng bởi câu “cá ngòi Lâu sủi đâu ăn đấy”, vào mùa nước ói cá tôm nườm nượp ngược dòng cũng là vụ thu hoạch thủy sản để làm nên món cá thính, cá sấy nổi tiếng. Và “Cha tôi cũng nhờ những thứ chân quê ấy mà lớn lên bên con Ngòi Lâu, mà chọi trâu chọi dế, mà vượt lũ vượt ghềnh, vớt củi, thả bè, kéo tôm đánh cá, mà đến với mẹ tôi”. Rồi mẹ khi về làm dâu nơi đây sớm trở thành người quê mà đồng hành cùng lớp người tham gia giữ gìn bản sắc “Cô con gái nhà công (công nhân) cũng từ ấy biết cấy, biết gặt, biết bó cọ gánh về, khéo léo chọc và đưa cọ bằng sào khi đảo mái nhà, trổ tài nấu bát canh “cá Ngòi Lâu sủi đâu ăn đấy”, để rồi sau này truyền những thứ ấy lại cho tôi, dạy chúng tôi mình cũng được sinh ra từ gốc rạ, mà thêm yêu cây lúa, mà thêm trọng nghề nông”. Với Ngoại, hình ảnh người phụ nữ chân quê nơi đồng chiêm trũng như khắc, như tạc vào ký ức đứa cháu để bây giờ thành một hình tượng trong văn chương thật khó phai nhòa “Và hầu như hôm nào cũng vậy, hòa vào chiều xẩm, theo chân những bó đóm rực hồng, những chiếc thúng còn tòng tong nước cá sẽ lại nối đuôi nhau nghễu nghện trên đầu. Ngoại nó sẽ lại hãnh diện trổ cái tài “Đại đội- đội to- đội nhiều” của người Hà Nam, đội những chàng măng dài thượt, những ả trôi trắng lẳn mình, những lão ngạnh râu dài đầu bẹp kia xuống làng đổi gạo, đổi muối, đổi dầu thắp đem về” (Miền xưa quê ngoại). Ngoại là bà, là người truyền lửa yêu quê bằng tất cả tình thương và trách nhiệm; là người thường mà cũng là nhân vật cổ tích dẫn dụ lớp cháu con gắn bó với những gì gần gũi thân thương đã làm nên truyền thống của nước, của làng “Chẳng biết tự khi nào mà Ngoại đã chuyển hết hoặc gần hết cho tôi những ký ức về quê hương Hà Nam Ninh của Ngoại. Cũng chẳng biết tự khi nào mà tôi biết tự hào về dòng Châu Giang, bến Đò Quan, trạm bơm Hữu Bị, biết yêu màu đỏ thĩm của chùm doi chín kỹ, thích vị bùi bùi của củ ấu, nhận ra vẻ đẹp bình dị của mẫu đơn (một loài hoa mà gần như nhà nào ở Hà Nam cũng trồng) và hơn cả, biết thiết tha yêu tiếng khoát nước dưới cầu ao lũm bũm” (Những viên gạch của làng Vũ Đại).

Yêu quê nhiều khi đã trở thành nỗi khát thèm, để có thể gặp bóng quê ở bất kỳ đâu nơi lòng Hà Nội: gian phòng nhỏ, bộ salon nan, chiếc bàn và tủ kính nhỏ với bát bún riêu cua gợi nhớ bát canh cua rau đay trưa hè quê quen thấy. Thế nên “thèm quê” giúp cô gái tìm lại “cái ngọt ngào của vị đắng” qua các loại rau dại nơi vùng đồi như rau má, tầm bóp, tàu bay, rau dớn, rau sam, chua me đất, cải rừng… Còn là “vị đòng lau”, “khoai của Dế”… tất cả đều được kể, tả kỹ càng bằng mọi giác quan như một chuyên gia ẩm thực. Cái món quê Hà Ngọc khiến nhiều người xa quê lúc nghĩ đến không khỏi ứa nước miếng lại là món cá thính Ngòi Lâu, thương hiệu cá kho làng Vũ Đại và món cháo hến Bãi Giữa dân dã mà mỗi khi kể hay xem ảnh thì “lần nào cũng vậy, dư vị cháo hến còn đọng mãi trên môi, trong mắt”. Nặng tình quê cũng là nặng lòng với người quê. Lúc nhỏ là bạn cắt cỏ, chăn trâu, bắt cua, bắt hến, trèo ổi, bẻ đòng lau. Lớn lên tung cánh bay xa lại nhớ “Bố Xê búc”, “Cất từng giọt mồ hôi mỗi ngày mẹ đổ” với lời răn dạy “Đường dài, ngựa hay cũng có lúc chồn chân mỏi gối, con hãy nhớ gia đình luôn là điểm tựa nâng bước chân con”. Điểm tựa gia đình, điểm tựa quê hương đã giúp cho “Dế nhỏ đã rời xa thảm cỏ cố hương, gom góp yêu thương, đong đầy lòng kiên định, để “kiễng chân chào bầu trời” như thế. Từ ấy, lời tình tự cri… cri cất lên giữa muôn loài, cứ theo mãi hành trang vững vàng cho Những Ngày Trong Phố”.

Đọc tập tản văn, tôi chợt nhớ bài thơ “Tháng Tư em” trong tập thơ “Những bông dành dành đất’ của chính Hà Ngọc: Về với em/ ta chỉ cần kín áo, no cơm/ Sống phận cỏ, hòa mình vào mạch đất/ Trăm năm vô ưu/ Ươm mầm cỏ mật/ Đời thường dân ngút mắt chân trời”. Phải chăng nặng tình quê khiến cho cô gái trẻ có những câu thơ già dặn đến vậy? Cũng phải chăng giữa tản văn với thơ có sự liên hệ mật thiết, bổ sung và hỗ trợ nhau để tâm hồn người viết bay cao, chạm vào chốn sâu thẳm con tim người đọc. Theo cố nhà thơ Y Phương, người có một số tập tản văn hay và luôn coi tản văn là chiếu nghỉ lúc làm thơ Nhưng tôi lén coi tản văn với thơ như hai anh em con dì con già. Viết tản văn phải có chất thơ. Nghĩa là nó biêng biêng trên nền tảng hiện thực. Nó bám hiện thực nhưng rồi đến khi có đà nó bay lên trên hiện thực”. Không bí hiểm nhiều tầng nhiều lớp như thơ, không phải bóc tách luận giải như trong tiểu thuyết, tản văn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc. Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính chất chấm phá, không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, phong cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩa mang đậm bản sắc cá tính của tác giả. Chính vì vậy tản văn dễ thích ứng với lối tư duy nhanh của đời sống thời hiện đại. Viết tản văn, Hà Ngọc đã có sự giãi bày từ những gì mà mình cảm nhận, mục sở thị. Đó là nỗi niềm xa quê sau những ngày xuân đoàn tụ gia đình Và mai, những đứa con quê tôi, sau những ngày nấn ná hội làng sẽ lên xe tỏa về các ngả. Họ đi học, đi làm, đi công tác, đi sinh sống xa, mang theo niềm quê canh cánh” (Tiết xuân đằm thắm vị quê); là sự rung động từ vẻ đẹp bình dị chân quê của một chiều xứ núi “Khói bắt đầu nở ra từ bếp chiều, bò lên mái sàn, lẩn vào tán cọ, quẩn vào khí núi. Khói gọi những chiếc mõ trâu, những đàn dê, những đứa mải khăng, mải nhởn, mải đáo, mải quay… mau mau men mùi cơm mới mà về” (Quanh co chiều). Có khi từ chính nghị lực bản thân qua nỗi niềm của cô gái giàu lòng vị tha khi đứng trước chia li “Trong sâu thẳm lòng mình em hiểu, sẽ khó tìm thấy ai hòa hợp với em như anh, làm động lòng em như anh và làm em hạnh phúc nhiều bằng anh. Những nghĩ suy của chúng ta dường như cùng tần số, niềm vui chia cho nhau dù nhỏ cũng đủ làm cả hai hạnh phúc đến vô cùng” (Mùa trôi trên ngón tay em). Đọc Hà Ngọc, ta bắt gặp giọng văn nhẹ nhàng mà lắng đọng, mỗi dòng là mỗi mảng màu ký ức về tình quê, tình bạn, gia đình và cuộc sống. Không chỉ giàu chất thơ, một số đoản văn hấp dẫn bởi sự hồn nhiên trong lối kể. Và với tôi, thứ lời ăn tiếng nói nhà quê có chọn lọc song hành cùng ngôn ngữ thời hiện đại đang dần làm nên nét riêng của tác giả. Mong rằng “Dế gọi mùa yêu” tiếp tục cri cri… cất lên lời tình tự, yêu thương muôn loài và theo mãi hành trang vững vàng cho những ngày tiếp nối.

T.Q

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter