Một gia tài văn chương còn đọng mãi

 KIM CHUÔNG

Năm 2001, cơ duyên cho tôi có được chuyến đi dài với Tùng Điển trong cuộc giao lưu với cơ quan Văn học ở Bắc Kinh, Trung Quốc. Tùng Điển giữ vai trò Trưởng đoàn. Gần nửa tháng trời, tôi luôn được ở cùng phòng với anh. Ở gần Tùng Điển, tôi thêm yêu anh nhiều. Tùng Điển thông minh, mẫn tiệp. Tùng Điển gần gũi, bộc trực và ấm áp tình người.

Tùng Điển tuổi Đinh Hợi, quê làng Ngũ Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội. Chàng trai cất tiếng chào đời vào giữa ngày Mồng một Tết đã làm “bà đỡ” cùng bà con xóm tộc buổi ấy phải “xuýt xoa”: “Trời... Trai mồng Một, gái hôm Rằm”... Quả tình, nhìn “cậu bé” lạ, kháu khỉnh, ai nấy đều “trộm vía” nói lời tiên đoán ở “cái thấy” và những gì sẽ thấy trong dự cảm, trong thầm lặng chờ mong.

Thế rồi, trước nhỡn tiền, trước cuộc đời- năm tháng, Tùng Điển chưa “danh cao, thế lớn”, nhưng phải nói, Tùng Điển được ông trời phú cho tài năng văn chương khá sớm. Dường như, văn chương đã sẵn nằm trong Tùng Điển. Và, Tùng Điển luôn lấy văn chương để giải thoát những khoảng trống hồn mình ...

Thật vậy. Năm mới mười ba tuổi, trong nỗi đau đứt ruột khi người cha sớm mất. Một chiều, ra nghĩa trang thăm nơi phần mộ. Tùng Điển đã xuất thần viết những câu thơ máu thịt. Những câu thơ mang hồn vía thi nhân. Những câu thơ mà trong đó Cảnh- Sự- Tình- Và, cái Nghĩ đều quyện hòa. Bài thơ mang tên “Làng yên tĩnh” có những câu thơ thâm trầm, xác xao và chắc... Hình ảnh “Làng chết” với cảnh giàu nghèo cũng phân chia. Với mộ xây, nhà cao cửa rộng. Với, “nắm đất khô, thanh gỗ cắm chênh vênh”... Rồi, từ “hình thi” lạ, hay từ “tâm thi” lạ, mà câu thơ với những liên tưởng lạ, như: “Áo trắng cha may con mặc/ Mới một cửa đời đã bẩn/ Ai may cho con áo khác/ Để đi tiếp cửa đời sau” ... Rõ ràng, cái nghĩ, tấm áo mặc “Mới một cửa đời đã bẩn” đâu chỉ còn là tấm áo? Câu thơ đa nghĩa này được đẻ ra từ cậu bé mới ở tuổi mười ba, mang sức vóc cao lớn hơn tuổi cậu. Câu thơ viết bằng trải nghiệm. Viết bằng sự thẳm sâu, “cái Biết”. Viết bằng hiện thực cuộc đời khi bước vào thơ đã cô nén, đã trưng cất và thấm loang trong hiện thực tâm tưởng.

Tùng Điển sẵn có “cái mỏ” văn chương ấy trong hồn. Cùng với “cái mỏ” tạo nên nguồn khơi giàu trầm tích. Đấy là cha anh, người tinh thông tiếng Pháp. Người nhiều năm mở trường dạy cho nhiều lứa học trò trên đất làng Ngũ Hiệp. Tùng Điển có cơ được chìm vào núi sách. Mê nghiền văn học Nga, văn học Pháp. Mê nghiền những Sê-khốp, Tuốc-Ghê-nhép, Pautopxki, Ai-ma-tôp; Những Guy-de-Mô-Pat-xăng, Vich-tor Huygo, Banzắc... Những trang sách đọc được đã đốt lên trong Tùng Điển ngọn lửa diệu kỳ. Tùng Điển lao vào viết Tiểu thuyết đầu tay dài hơi Đời góa. Nhà văn mười bốn tuổi này đã biết hư cấu, biết “bịa” từ nguyên mẫu người mẹ góa bụa đầy gian lao, thương cảm và kính phục của đời mình.

Tiểu thuyết dày 300 trang, viết trên giấy xi-măng. Những vỏ bao xin được từ buổi đi phụ vữa, hay đi gánh gạch thuê. Viết xong, đi bộ từ đất quê Ngũ Hiệp, Tùng Điển xông thẳng vào Nhà xuất bản Thanh Niên. Người tiếp Tùng Điển là “Ông đầu hói” mà sau này Tùng Điển mới biết, đó nhà thơ Phan Xuân Hạt. Có điều, “ông đầu hói” thật niềm nở, chân tình. Ông gọi Tùng Điển là cậu bé. Ông vui vẻ nhận đọc tác phẩm, hứa sẽ sớm hồi âm.       

Vào một sớm thu, năm 1961, đúng mười ngày sau khi nhận bản thảo, Phan Xuân Hạt đã đọc xong, ông trả lại tác phẩm cho Tùng Điển với nhận xét: “Cậu nhỏ có năng khiếu văn chương... Khá đấy. Tiểu thuyết đọc cuốn hút. Nhân vật góc cạnh. Bi thương... Nhưng, cậu hiểu không? Thời buổi này, in sao được, tác phẩm này, hả cậu?...”

Không nản chí. Cũng không hiểu từ sự thôi thúc mãnh liệt nào, Tùng Điển xoay ra viết truyện ngắn. Rất vui, những ngày sau đó, truyện ngắn của Tùng Điển được Báo Văn nghệ đăng, Đài Phát thanh đọc, khi Tùng Điển còn đang là một cậu học sinh ngồi trên ghế nhà trường.

Tài năng văn chương của Tùng Điển sớm được khẳng định. Chả vậy, năm 1966, khi mới vào tuổi mười chín, Tùng Điển đã trở thành Hội viên sáng lập của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Được Nhà văn Tô Hoài và Đại hội giới thiệu bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành của Hội Văn học Nghệ thuật Thủ đô.

Là học sinh Trường Chu Văn An, Tùng Điển được gọi vào Trường Đại học Thông tin liên lạc thuộc Tổng Cục Bưu điện. Tốt nghiệp Đại học, năm 1970, là sinh viên hạng Ưu, Tùng Điển được giữ lại làm giảng viên, giảng dạy tại trường. Đầu năm 1972, anh được điều vào quân đội, giai đoạn này cuộc chiến tranh đánh Mỹ đang diễn ra ác liệt, trong niềm khát khao được xông ra mặt trận, nhưng hai lần đã sẵn sàng bước vào “bệ phóng,” Tùng Điển đều bị “thất vọng.”

Lần một là, mười bốn giáo viên bổ sung cho mặt trận, nhưng khi “tập trung” rồi, Tùng Điển lại bị nhà trường giữ lại. Lần hai, nhà thơ Thu Bồn đại diện Tạp chí Văn nghệ Quân đội được cử về tận quê làm lý lịch xin cho Tùng Điển “đi B”… Nhưng, buồn thay! Khi chuẩn bị lên đường thì Sài Gòn giải phóng, đất nước đã xua tan bóng dáng quân thù.

*

Trước khi tham gia quân đội, năm 1976, từ một thầy giáo đang dạy Toán ở một trường Đại học, nhà văn Tùng Điển chuyển về làm cán bộ biên tập ở Nhà xuất bản Thanh niên. Tại đây, nhằm vào quy hoạch, đào tạo “cán bộ nguồn” kế nhiệm, Tùng Điển được Trung ương Đoàn cử đi học hai năm Trường Đảng Cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Khi tốt nghiệp, trở về cơ quan cũ, muốn thay đổi “không khí” khác, thích hơn, Tùng Điển chuyển sang làm Biên tập ở Nhà xuất bản Kim Đồng. Năm 1988, Tạp chí Tác phẩm Văn học của Hội Nhà văn ra đời, Tùng Điển về làm Biên tập viên từ số đầu tiên. Rồi Thư ký Tòa soạn, Phó Tổng Biên tập với sự dẫn dắt của nhà văn Nguyễn Đình Thi, đương kim Chủ tịch Hội Nhà văn, Tổng Biên tập,  tờ Tạp chí Tác phẩm Văn học danh giá nhất thời ấy.

Năm 1999, ở chặng cuối, cũng là nơi bến đậu dài lâu mà Tùng Điển gắn bó, khi nhà văn Nguyễn Đình Thi mời ông về làm Giám đốc, quản lý Quỹ hỗ trợ sáng tạo Văn học của Ủy Ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam… Đến năm 2010, Đại hội lần thứ lần thứ VII, Tùng Điển được tín nhiệm bầu làm Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

Là người thầy thông minh, lịch lãm. Là nhà văn có phong tư, phong cách. Có thành công đáng kể ngay từ thuở tuổi đời còn rất trẻ. Là người lãnh đạo, quản lý luôn tận tụy, chân tình, chu đáo... Nhà văn Tùng Điển có không ít người ngưỡng mộ, quý yêu, nhất là những văn nghệ sĩ, những người quản lý hoạt động văn học nghệ thuật ở các địa phương trên khắp tỉnh thành cả nước. Tùng Điển là người sống gần gũi, chăm lo, người in đậm bóng hình nơi con tim mến yêu của họ.

*

Là nhà văn, nhưng quãng thời gian khá dài, Tùng Điển với vai trò một lãnh đạo. Công việc quản lý luôn đè nặng, chi phối không ít cho tư duy lao động sáng tạo nghệ thuật. “Gia sản” văn chương của Tùng Điển có hơn mười cuốn sách. Nhà văn luôn coi trọng cái tinh, cái chất. Bởi vậy, gần như trong các tác phẩm văn xuôi được xuất bản, có tới năm tập Tiểu thuyết, Truyện ngắn (chiếm gần một nửa tác phẩm, xuất bản) Tùng Điển đều giành được giải thưởng cao từ các cuộc thi sáng tác văn học. Tập truyện ngắn “Bức ký họa” in năm 1983 của Tùng Điển được dịch sang tiếng Tây Ban Nha. Truyện “Mắt xích” dịch và in ở Nga. Truyện “Bãi vắng” được dịch sang tiếng Anh...

Tùng Điển cũng vinh dự được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2017.

Giống như mạch cưa mở ra hai chiều tách rời và dính líu. Tùng Điển có hai mảng sáng tác. Một mảng dài đi trong không gian rộng. Không gian của một thời ôm trùm và đề cao hiện thực. Không gian của “Việc,” của cái chung. Của màu hồng trong lối nhìn, cách nghĩ… Nhưng, là nhà văn, trên những trang văn xuôi, mang trong mình tâm hồn thi sĩ. Văn của Tùng Điển giàu có chất văn. Văn hướng về phía lọc sàng, nghiềm ngẫm hiện thực để tìm được sức vang động nhiều hơn nơi phía sau hiện thực.

Từ “Mạch ngầm”, tiểu thuyết được Văn nghệ Hà Nội trao giải Nhất năm 1976, đến tiểu thuyết “Khoảng trống”; rồi các tập truyện ngắn “Những ô cửa màu nâu”, “Bức ký họa”, “Những đứa con thành phố”, “Bãi vắng”... Gần 30 năm sáng tác liên tục, cứ hai năm Tùng Điển cho ra đời một đầu sách. Nhưng bẵng đi thời gian Tùng Điển im hơi lặng tiếng trên văn đàn, tính từ tác phẩm “Ngọn đèn như quả hồng chín”, truyện dài viết cho thiếu nhi, Nhà xuất bản Hà Nội ấn hành vào năm 1987. Năm 2018, nhà văn Tùng Điển mới tái xuất với Tiểu thuyết “Người cũ”, do Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân ấn hành… Cuốn tiểu thuyết hiện đại này không đồ sộ về số trang, nhưng, thực sự tạo được cái lớn hơn “cái Nó đang có” ở sức vang, sức loang thấm, chảy dài với sức ám ảnh ở nhân vật, sự kiện... Phải nói, nét trội của văn xuôi Tùng Điển vẫn là sức cô nén cái bên ngoài để gửi gắm và tìm được chiều sâu nơi tâm tưởng ở những gì qua suy tư, phát hiện... Có lẽ, từ “tự thức” và ý thức ấy, cuốn tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn Tùng Điển đã góp vào văn đàn đất nước một tác phẩm hay, với tiếng nói riêng ông. Và đó cũng là mảng văn chương được nối dài, được đắp dầy và được thêm vào một gia tài văn chương còn đọng mãi với thời gian.

K.C

Các tin khác:

Louvre - Bảo tàng nghệ thuật danh giá nhất thế giới

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

ĐỖ NGỌC DŨNG

Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở Thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới, với khối kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác, tinh hoa nghệ thuật vô giá của Pháp và thế giới. Nơi đây được chính thức mở cửa đón khách tham quan từ năm 1793.

Là một họa sĩ, từ lâu cái tên bảo tàng Louvre tôi đã được nghe nhắc nhiều lần, cũng được biết sơ sơ qua màn ảnh nhỏ. Vì thế, chuyến Tây Âu lần này, là cơ hội để tôi được đặt chân đến địa chỉ văn hóa đặc biệt này.

Một ngày nghỉ tự do ở Thủ đô Paris, nhờ sự hỗ trợ của cán bộ sứ quán đặt vé qua mạng trước đó hai ngày, chúng tôi đã có mặt tại sân chính mang tên Hoàng đế Napoleon của bảo tàng, ngước nhìn xung quanh là ba tòa nhà dài tráng lệ với nhiều tượng và phù điêu được trạm trổ tinh xảo. Không may cho chúng tôi, lúc này trời bắt đầu mưa nặng hạt, nhưng cùng với dòng người kiên nhẫn xếp thành 4 hàng dài cả trăm mét, để vào bảo tàng qua 2 cửa của mô hình Kim tự tháp bằng kính.

Qua tìm hiểu được biết: Louvre đầu tiên được xây dựng như một pháo đài để bảo vệ thành phố khỏi những cuộc tấn công theo mệnh lệnh của hoàng đế Phillipe-Auguste. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử xã hội Pháp, đến thế kỉ thứ 16, Louvre được trùng tu làm cung điện hoàng gia và sau đó vào năm 1793, nó được điều chỉnh và chính thức trở thành một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu ở Paris. Louvre còn trải qua một cuộc đại trùng tu nữa ở giữa thế kỷ 19, để nó có diện mạo đẹp như ngày nay.

Louvre đúng như một cung điện đồ sộ với tổng diện tích là 210.000 m2, trong đó diện tích trưng bày là 60.600 m2. Cấu trúc độc đáo bao gồm 3 tổ hợp kiến trúc tinh xảo.

Louvre không chỉ độc đáo bởi các sưu tập hiện vật trưng bày mà còn độc đáo ở kiến trúc, điêu khắc, đặc biệt sự góp mặt của mô hình Kim Tự Tháp bằng kính (Pyramid) nằm ở chính giữa sân Napoléon của bảo tàng. Kim Tự Tháp bằng kính này do Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa Leoh Ming Pei thiết kế, bắt đầu xây dựng năm 1983 và hoàn thành vào năm 1989 (dưới thời Tổng Thống Francois Mitterand). Bao bọc xung quanh Kim tự tháp chính là bảy đài phun nước hình tam giác hướng lối vào cho khách tham quan xuống tiền sảnh dưới tầng hầm.

Qua Kim tự tháp bằng kính, ánh sáng chiếu xuống sáng rõ những phòng trưng bày phía dưới và ở mỗi cánh Kim tự tháp đều có cửa riêng dẫn khách.

Không gian nghệ thuật bên trong

Dù dưới thời đệ nhất đế chế Pháp, nhờ những cuộc chinh phạt của Napoleon, nhiều tác phẩm nghệ thuật và hiện vật khảo cổ có giá trị được chuyển về Louvre. Tuy nhiên sau thất bại của Napoleon trong trận Waterloo, nhiều cổ vật được trở về với những quốc gia chủ nhân của nó.

Bảo tàng Louvre hiện đang lưu giữ khoảng 380.000 hiện vật, trong đó tại hệ thống trưng bày chỉ trưng bày, giới thiệu khoảng 35000 tác phẩm chia thành 8 bộ sưu tập tương ứng với 8 phần trưng bày. Là những bộ sưu tập khổng lồ về hiện vật từ cổ xưa nhất của Ai Cập cổ đại đến thế giới hiện đại, nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo, hội họa, điêu khắc tạo hình và trang trí… Ngoài 8 bộ sưu tập chính, Louvre còn một khu trưng bày lịch sử của chính cung điện và một bộ sưu tập nghệ thuật Châu Á, Phi, Mỹ và Châu Đại dương.

Khu vực phương Đông cổ đại; gồm 100.000 hiện vật của nền văn minh cổ thuộc các nước Trung Cận Đông từ 8000 năm trước Công nguyên cho đến thời kỳ Hồi giáo.

Khu vực Ai Cập cổ đại; gồm 50.000 hiện vật giới thiệu chứng tích về các nền văn minh nối tiếp hai bờ sông Nin, từ thời Tiền sử tới thời Cơ đốc giáo.

Khu vực Hy Lạp, La Mã và Etruria cổ đại; với 45.000 hiện vật, dành cho các tác phẩm của ba nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Etruria.

Khu nghệ thuật Hồi giáo; với 10.000 hiện vật, bao gồm các hiện vật được lấy cảm hứng từ Hồi giáo, trải dài suốt 1300 năm lịch sử của ba châu lục.

Khu vực hội họa; gồm 11.900 hiện vật, giới thiệu tất cả các trường phái phương tây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19.

Khu vực điêu khắc; gồm 6.500 hiện vật là những tác phẩm thời Trung cổ, thời Phục hưng và hiện đại.

Khu vực nghệ thuật họa hình; gồm 137.479 hiện vật là những tác phẩm vẽ trên giấy, tranh phấn màu, tiểu họa, bản in, bản khắc, in thạch bản… và các chất liệu gỗ, da…

Khu vực nghệ thuật trang trí; gồm 20.704 hiện vật gồm các đồ vật của thời Trung cổ đến nửa đầu thế kỷ 19, hiện vật đa dạng, đồ trang sức, thảm đồng hồ, với nhiều chất liệu đồng, kim loại quý, ngà voi…

10 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng của bảo tàng

Louvre có hàng ngàn kiệt tác nghệ thuật vô giá nhưng hãy tạm chọn ra 10 tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng nhất và có lẽ xếp theo thứ tự như sau:

1. Bức tranh “Mona Lisa” (hay còn gọi là La Giocondo) của đại Danh họa Leonardo da Vinci. Đây là một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất thế giới, được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence vào thế kỷ 16, trong thời kì Phục hưng Italy.

Lịch sử bức tranh Mona Lisa được vẽ từ năm 1503 đến 1506 (thế kỷ 16), khi Leonardo da Vinci đang đi tìm người bảo trợ cho bức tranh. Tuy nhiên, Ông đã không vẽ xong bức tranh này nên không được trả tiền, và cuối cùng ông mang theo nó khi đến Pháp 10 năm sau đó. Bức tranh này được đưa vào bộ sưu tập của vua Francis I, người bảo trợ cuối cùng của Da Vinci và là một trong những tác phẩm nguyên bản được trưng bày ở bảo tàng Louve từ năm 1797 theo thông kê của bảo tàng, mỗi năm có hàng chục triệu du khách đến đây để chiêm ngưỡng bức tranh thần bí này.

Mấy chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, thậm chí còn bị lạc nhau khi mải mê xem những tác phẩm nguyên bản trưng bày trong bảo tàng. Đặc biệt là mãi mới tìm đến được nơi lưu giữ bức tranh này ở tầng 2 khu trưng bày. Cũng như mọi du khách chúng tôi cố gắng để có bức ảnh kỉ niệm trước bức tranh nổi tiếng này, mặc dù tất cả đều phải đứng cách bức tranh tầm trên 3m bởi một hàng rào đặc biệt.

2. Tượng thần chiến thắng "Nike of Samothrace" hay "Winged Victory". Đây là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía Đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh. Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng Tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.

3. Bức họa "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse" (Le Radeau de la Méduse/ The Raft of the Medusa) của danh họa Théodore Géricault- một trong những người khai sáng ra chủ nghĩa lãng mạn trong hội hoạ. Đây là bức tranh làm bùng nổ một vụ scandal chấn động nước Pháp và cả thế giới những năm đầu thế kỷ 19. Bức tranh mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, đang vẫy gọi cầu cứu một con tàu xuất hiện nhỏ xíu ở tít đằng xa phía chân trời trong sự tuyệt vọng. Théodore Géricault vẽ bức họa này năm ông 27 tuổi. Phần máu trong tranh là kết quả tìm tòi không ngừng nghỉ của Géricault trong nhiều nhà xác.

4. Bức cẩm thạch "Psyche Revived by Cupid’s Kiss" (Psyche hồi sinh sau nụ hôn của Thần Ái tình). Tuyệt tác về tình yêu đích thực này được tạo ra vào năm 1787 bởi nhà điêu khắc tài hoa người Ý Antonio Canova theo trường phái Tân cổ điển. Trên một nền đá cẩm thạch, Canova dựng lại câu chuyện tình thần thoại của Thần Ái tình (kích thước xấp xỉ người thật) và nàng Psyche. Nữ thần Venus khiến Psyche bất tỉnh và ngủ vùi cho tới khi thần Cupid tới hôn lên môi Psyche. Sau đó nàng công chúa trần gian này uống một ly nước tiên và có thể sống bất tử với Cupid như những vị thần khác.

5. Bức họa "Death of Sardanapalus" (Cái chết của Sardanapalus) của Eugène Delacroix. Bức họa vẽ năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ “Sarnadapalus” của Byron. Vở kịch này lấy bối cảnh Assyria thời cổ với nhà vua anh hùng do đắm chìm trong một cuộc sống kiêu sa dâm dật, lại chuyên quyền tàn bạo. Sau đó vị vua này ra lệnh tiêu hủy toàn bộ tài sản của ông khi ông biết quân đội dưới quyền thất bại. Danh họa Delacroix chọn phần hay nhất của câu chuyện để vẽ - khi tất cả các thê thiếp và nàng hầu bị đem đi giết. Bức họa có đủ tính bạo lực, xa hoa quyền thế và gợi dục, núp dưới lớp vỏ "tranh lịch sử". Hiện bức tranh này được xem là tác phẩm đẹp nhất của viện bảo tàng mỹ thuật Louvre, hàng ngày nó hấp dẫn vô số người đến xem.

 

6. Tranh sơn dầu "Liberty Leading the People" của danh họa Eugène Delacroix, vẽ năm 1830. Cuộc cách mạng tháng 7 của dân chúng Paris đánh đuổi vua Charles X chính là điều thôi thúc Delacroix vẽ bức họa này. Ông đặt cô gái nửa lõa thể xinh đẹp vào vị trí nổi bật nhất của bức tranh, để cho nàng một tay đưa cao lá cờ tam sắc tượng trưng cho tự do, còn tay kia thì siết chặt khẩu súng có lưỡi lê tượng trưng cho cách mạng. Goethe từng ca ngợi Delacroix là người đã thực hiện “Sự hòa hợp một cách kỳ lạ giữa thiên đường và nhân gian”. Hình tượng của vị Nữ thần Tự do này làm say mê nhiều người nhất trong hội họa của nước Pháp. Nó đã cùng với Khải hoàn môn và tháp Eiffel trở thành tượng trưng cho nước Pháp và nền văn hóa Pháp.

7. Tranh "The Moneylender and His Wife" của danh họa Quentin Metsys, vẽ năm 1514. Quentin mô tả chính xác tới từng chi tiết mọi nét tính toán của người chồng tham lam làm nghề cho vay tiền và người vợ "cùng hội cùng thuyền". Người ta có thể thấy hai con ngươi mắt họ đếm từng đồng xu và cẩn thận ghi chú trọng lượng của chỗ vàng trên bàn.

8. Tượng thần Vệ Nữ, ra đời khoảng 130-100 trước Công Nguyên. Từ tượng điêu khắc Venus de Milo này mà người ta được biết những tượng điêu khắc bên trời Tây Âu đã dùng làm tiêu chuẩn để tạc đàn bà khỏa thân. Khuôn mặt thụ động trung dung, khác hẳn với đường cong mềm mại uyển chuyển của thân hình, điển hình khuôn mặt Hy lạp.

9. Bức họa nổi tiếng "The Coronation of Napoleon I and Coronation” của Josephine in the Cathedral of Notre-Dame de Paris on 2 December 1804" của Jacques-Louis David, vẽ năm 1806- 1807. Bức tranh vẽ về lễ Đăng quang của Napoleon, rộng 10m và cao 6m- là một trong những kỉ lục tuyệt vời trong lịch sử hội họa nước Pháp.

10. Tranh sơn dầu "La Grande Odalisque" của Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814. Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên.

Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Và đã được du khách thế giới đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất:

- Là bảo tàng lớn nhất thế giới.

- Là cung điện của nhiều triều đại nhất.

- Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất.

- Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ, những kiệt tác vô giá nhất.

- Là bảo tàng được truy cập nhiều nhất thế giới (qua website).

- Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất thế giới.

- Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất.

- Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất.

- Là bảo tàng phát sáng nhất (nhờ sử dụng 3200 bóng đèn led kết hợp với sự phản chiếu từ 673 tấm kính của kim tự tháp kính).

Hàng năm Bảo tàng Louvre đón hàng chục triệu lượt khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn.

Đ.N.D

 

16-20 of 68<  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  ...  >

Văn nghệ Yên Bái

Văn nghệ Yên Bái vùng cao

Thư viện Video

cuộc thi Văn học nghệ thuật

YÊN BÁI CHUNG TAY PHONG CHỐNG DỊCH COVID-19

Giá sách văn nghệ

Lượt view

Visitor Counter