• Loading...
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Yên Bái tập trung đẩy mạnh đưa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII vào cuộc sống
 
Chiếc Đỉnh đồng
Ngày xuất bản: 30/04/2025 2:35:34 CH

Truyện ngắn của HOÀNG HỮU SANG

 

Bà Duân nhổm dậy nhìn ra ngạch cửa. Những vệt sáng trắng hắt vào làm cho bà giật mình vùng ra khỏi giường, quáng quàng nhóm bếp tráng bánh cuốn, gọi con dậy học bài. Sau một giấc ngủ say, tay nâng, chân bước mới nhẹ nhàng làm sao. Bà thầm nghĩ: Bố mình nói đúng thật “Thịt gà thiến cũng không ngon bằng giấc ngủ lúc tinh mơ”. Câu nói ấy bà đã quên hơn ba mươi năm nay vì một lời căn dặn của mẹ: “Con gái ngủ dậy muộn còn nhạt hơn nước chè hâm lại”. Chẳng biết hôm nay đốc chứng hồi xuân hay ma xui quỷ ám thế nào bà mới ngủ say thế, say đến không nghe thấy tiếng chổi quét chợ của lão Hà Lều.

Chợ Khế như cái dạ dày phình ra trên con đường từ Thác Bà đi Hàm Yên, chiều dài không quá một trăm mét, còn chiều ngang đủ chỗ cho người đem hàng đến chợ bày hai bên đường. Đằng sau còn một lối để mọi người vào mua hàng xén bày ngay trước hiên nhà. Chợ nhỏ như thế nên tiếng chổi của lão Hà Lều báo thức cả phố. Trước đây chợ họp tuần một phiên. Sáng thứ bảy lão Lều quét tước đón khách chợ chiều, trưa chủ nhật dọn, cái tả tơi xô bồ của buổi chợ phiên. Những năm gần đây sáng nào người ta cũng họp chợ.

Chợ họp tăng phiên thì công quét dọn của lão Lều cũng tăng lên. Công quét dọn tăng lên nhưng thù lao cho lão vẫn thế, thậm chí giảm đi; ấy là vì lão không vợ không con không họ hàng thân thích. Ai cho gì mặc nấy, khi là quần áo thợ, bà ba, lúc lại thấy lão mặc quần áo bộ đội.

Ngoài tám mươi tuổi, cơ thể hộ pháp của lão cũng không còn đòi mấy cơm thịt; cần nấu ăn, lão bốc của các bà hàng gạo một nắm, cả tuần cũng chả khắp mặt. Lão đứng trước hàng thịt, chủ hàng hiểu ý thái cho lão ngay, toàn thịt nạc, từ những chỗ cân thừa bỏ ra. Thích ăn rau hàng nào lão tự đến cởi lạt lấy nửa mớ. Còn lại nửa mớ rau thì bán cho ai, người ta dúi cả cho lão. Chả nói chả rằng lão bỏ lại. Không ai kêu ca kiểu thu lệ phí quét chợ ấy, vả lại lão đã già. Niềm trắc ẩn sinh ra sự hào hiệp, nhất là sự hào hiệp không tốn kém.

Trời bắt đầu nóng nực, thấy hiệu cắt tóc vắng khách lão ngồi vào ghế. Người chủ hiệu sau khi quàng thật chặt tấm vải trắng quanh cổ lão bắt đầu lạch xạch chiếc tông- đơ. Lão hơi rùng mình vì lạnh như cắn cổ. Chẳng khác gì máy húc, chiếc tông- đơ trườn từ cổ, gáy lên đỉnh đầu. Tóc đùn lại từng mảng rơi xuống đất. Chiếc tông- đơ chạy ngang chạy dọc không để sót một sợi tóc nào. Chưa xong. Người chủ hiệu xoa lên đầu lão một lớp bọt xà phòng trắng toát rồi bắt đầu liếc thật kỹ con dao cạo. Cắt thế, đến khi như mọi người lại cắt được vừa đúng lúc bắt đầu vào mùa đông. Lão để tóc cho ấm.

Càng già lão càng ít nói.

Chỉ có tiếng chổi của lão thì vẫn thế, có tiết tấu, cung bậc hẳn hoi. Hàng phố nghe tiếng chổi thương lão quá. Cũng có lúc lòng lão thư thái, tiếng chổi nhảy nhót trên những hòn đá cuội rồi kéo dài, nhỏ dần như tiếng ngân. Chai lọ nhựa rỗng lăn theo long bong đệm nhịp. Lặng đi một chốc, tiếng chổi lại vang lên rộn ràng. Khi lão buồn, tiếng chổi rời rạc, nhỏ như tiếng thở dài. Ở trong nhà, nghe tiếng chổi của lão, người ta biết trời mưa hay nắng. Mưa càng to tiếng chổi càng sền sệt, nặng nề. Trời khô hanh tiếng chổi vang dội, nó như tiếng vỗ tay hòa đồng giữa muôn mảnh lá cọ với đất đá. Nhà nào dậy muộn lão quét hộ cả hiên, khi ấy tiếng chổi như tiếng chân mèo khổng lồ cào vào vách chẳng thể nào ngủ được.

Thế mà sáng nay tiếng chổi của lão đã không thức được bà Duân dậy. Hầu như cả phố dậy muộn, còn im ắng lắm. Bà Duân ngờ ngợ mở cửa nhìn ra đường. Lão Lều chưa quét chợ. Đó là sự lạ hơn năm mươi năm nay mới có ở phố nhỏ miền rừng này. Bà bỗng chột dạ định chạy sang nhà lão, nghĩ thế nào bà quay lại gọi chồng. Ông Nhất một tay cầm khay, tay kia xòe ra chặn lên mây cái chén, nghiêng đổ nước lên chậu hành hoa, nghe vợ gọi đi vội vào nhà.

Cửa nhà lão Lều không bao giờ khóa cũng chả bao giờ cài bên trong. Căn nhà một gian hai chái vẩy trông như lều canh nương khiêm tốn lui sau dãy phố. Cây khế trùm lên cả căn nhà và khoảng sân.

Bà Duân đẩy cửa bước vào. Lão Lều ngồi cuối giường, mắt nhắm nghiền, mồm hé mở như sắp nói điều gì, đầu hơi ngả dựa vào cột, hai tay cầm chiếc chổi cọ tì vào vai. Bà Duân lay vai lão “Ông mệt hay sao thế ạ?”, rồi bỗng bủn rủn cả người vùng chạy ra cửa, đâm sầm vào ngực chồng đang đi vào: “Lão Lều chết rồi”.

Chả mấy chốc cả phố đổ về chật cứng xung quanh căn nhà nhỏ. Bọn trẻ con tranh nhau trèo lên cây khế bấu véo nhau chí chóe rồi túm tụm từng tốp thêu dệt, huyền thoại hóa cuộc đời lão Lều. Thằng Đông bị bà Duân kéo xuống bắt về lấy chai rượu gốc. Ông Hàm gọi con về đào gừng.

Người ta lấy gừng trộn với rượu bóp các khớp để gỡ chiếc chổi khỏi tay lão, đặt lão nằm cho đúng cái tư thế người về chốn cực lạc vẫn nằm. Giọng ồm ồm của lão Hàm méo mó:

- Cả đời lão quét chợ, chết vẫn còn giữ cái chổi... Để vào kia, con. Nhớ khi hạ huyệt xong đốt theo cho lão.

*

 

Hơn năm mươi năm quét chợ Khế nhưng lão Lều không phải người vùng này. Quê lão tận Bảo Hà. Sau dịch đậu mùa, Hà Lều trơ trọi như cây ngô trái mùa ven nương. Một hôm đứng chờ bà chủ quán phở trả tiền gánh củi, Hà Lều vô tình nhìn theo một người con gái áo trắng, quần láng đen đi lại thu dọn các bàn ăn. Bỗng ánh mắt người con gái bắt gặp cái nhìn của Lều. Cô ta sững một giây rồi nghiêng đầu chào. Chưa bao giờ Lều thấy người con gái đẹp nhìn mình với ánh mắt gần gũi như thế. Vì đôi mắt đen lay láy tự tin và tinh nghịch. Không phải! Vì đôi má lúm đồng tiền ửng hồng, dáng người thon thả nhanh nhẹn hay là tất cả những cái đó cộng lại? Cũng không phải nốt. Đó là hiện thân của vẻ đẹp con gái vào độ đầy đặn, vui sống chan hòa. Nó làm cho Hà Lều mê mẩn như lạc vào một thế giới khác, bỗng chốc quên hết thân phận nghèo hèn của mình mỉm cười với cô gái. Cô gái nghiêng đầu chào lần nữa rồi bưng chồng bát xuống bếp.

Thế thôi.

Thế là từ đấy đôi chân của Lều không còn nghe theo sự dẫn dắt của cái đầu nữa. Có gánh củi trên vai nó lại về quán phở Tình Dân. Hà Lều sẵn sàng đổi cả gánh củi để chỉ nhìn thấy bóng áo trắng ấy.

Cái dáng người không lẫn được giữa những người con gái khác. Đáp lại, bao giờ Lều cũng nhận được một cái nghiêng đầu chào. Càng lần sau cái nghiêng đầu càng lâu hơn và đôi mắt cũng lóng lánh, đằm thắm hơn. Trên đời này sao chỉ có một người nghiêng đầu chào thân tình như thế để đêm về Hà Lều chẳng thể nào ngủ được. Nghĩ mình là người khác dân tộc lại cô đơn nghèo khó, Hà Lều buồn héo hắt. Nhưng hình ảnh người con gái ấy, nụ cười ấy làm lòng anh tươi lại.

Thế rồi một hôm chính tay cô gái cầm tiền từ tay bà chủ đưa cho Lều và lần đầu tiên anh nghe cô gái nói:

- Mai anh lại đến nhé!

Chả nói thì Hà Lều cũng đến, thế mà câu ấy nói ra anh chẳng bao giờ quên được. Hà Lều nhớ như in và thỉnh thoảng lại cho tiếng nói ấy vang lên bên tai mình. Có gì đâu, chỉ cần nhớ lại...

*

Liên không phải người Bảo Hà. Cô lạc gia đình trên chuyến tàu tản cư. Bà Tình thấy cô gái xinh đẹp, nhanh nhẹn mời làm việc tại cửa hàng nhà mình.

Ngay từ lần đầu tiên trông thấy anh, lòng Liên đã thương mến lạ lùng chàng trai cao to, có khuôn mặt đẹp, hiền như Phật.

Con người ấy chắc cô đơn lắm, không thế sao ánh mắt anh thân tình mà buồn đến vậy! Nhìn anh, Liên càng căm ghét cái thằng Tề gần nhà xa ngõ ở quê mà bố cô cứ nhận hắn làm con rể. Thương bố một đời nghèo khó nên thấy người có của thì trọng nhưng Liên thì không thể gần cái thằng theo Tây, mặt đầy trứng cá, có đôi mắt hau háu cứ thọc vào ngực áo các cô gái.

Một buổi tối, Hà Lều ngồi dưới cây nhãn đầu ngõ thơ thẩn nhớ. Nhìn trăng sáng anh lại như thấy hiển hiện hình dáng Liên trước mặt. Sao nhớ nhau người ta lại có thể nhìn thấy nhau rõ như vậy?

- Ô! Anh! Nhà anh ở đây à?

Lều biết đây là sự thật nhưng sự thật đột ngột từ nhớ thương hiện ra làm cho anh không sao nói được nên lời.

- Đi đòi nợ cho bà Tình em bị lạc đường. Về Bảo Hà xa không anh?

- Em lên nhà chơi rồi anh đưa về.

- Nhưng một tí thôi nhé không bà Tình mắng em chết. Em đói ngấu nghiến rồi. Đi lạc, em sợ quá.

Tiếng Liên ríu rít bên tai mà Lều cứ ngỡ như trong mơ.

Hai người cùng ngồi xuống bên bếp củi. Lửa lép bép tung những bụi than li ti lên cao rồi bừng sáng. Lều bưng đến một rá xôi và một bát thịt to.

- Thịt lợn cỏ đấy, chiều nay bọn anh săn được.

- Em phải về, muộn lắm rồi.

- Ngồi ăn đi, anh cũng chưa ăn tối mà.

- Không được đâu, em phải về. Thôi, cho em một miếng vừa đi vừa ăn vậy.

Lều dúi cả gói xôi cho Liên

- Anh đưa em về chứ?

Họ vừa đi vừa ăn vừa nhìn nhau cười.

- Em chưa bao giờ được ăn ngon thế.

- Anh cũng thế.

- Anh thì thiếu gì!

- Ăn một mình buồn lắm.

Hà Lều kể về mình. Câu chuyện càng ngày càng làm cho lòng Liên xốn xang. Cô nắm cánh tay Lều nép sát vào anh. Giá như con đường đầy trăng và loang lổ bóng cây cứ dài mãi không đến đâu cả họ sẽ đi bên nhau suốt đời. Đã đến đoạn đường rợp bóng long não, qua cầu là đến ga, họ để tay trong tay rất lâu, rất lâu.

- Em về nhé!

Liên nghiêng đầu chào rồi khúc khích chạy ra con đường mát rượi ánh trăng.

Hôm sau Lều lại gánh củi đến nhưng không còn thấy bóng áo trắng của Liên. Bà Tình nhìn Lều với ánh mắt cảm thông.

- Liên nó gửi lời chào anh.

- Liên đi đâu rồi ạ?

- Bố cô ta lên tìm. Nó định vào nói với cháu cái gì ấy nhưng ông bố giục về ngay chuyến tàu trưa. Nó bảo thế nào rồi cũng sẽ lên, có gì cháu cố chờ.

Những đêm trăng lần lượt đi qua. Liên không còn hiện ra từ nỗi niềm mong nhớ. Biết không thể ngồi chờ mà gặp được, Lều ra đi. Anh theo bộ đội đánh đồn Phố Ràng rồi thành bộ đội trinh sát, làm liên lạc cho một đồng chí lãnh đạo cao cấp trong quân đội. Đi đâu Lều cũng chỉ hướng về Hưng Yên nơi có người con gái áo trắng duyên dáng nghiêng đầu chào anh.

Hòa bình, Lều tìm về quê hương nhãn lồng đang ngan ngát mùa hoa. Liên héo hắt như tàu lá dong phơi nắng. Nhận ra Hà Lều, Liên không đứng vững nữa. Anh vội đỡ cô gục vào ngực mình. Nước mắt nóng hổi nơi trái tim anh đang thổn thức. Qua phút xúc động đột ngột Liên khẽ đẩy anh ra.

- Mời anh vào nhà.

Nhà cô như bao nhà vùng địch tạm chiếm, hoang lạnh và xơ xác. Nó xơ xác như đời cô gái xinh đẹp nhất vùng Bãi Dâu.

Liên từ Bảo Hà về, bố cô ép gả cho thằng Tề đã đeo lon đội. Đêm, cô trốn lên thị xã định ngược Bảo Hà thì bị trùm chăn vác xuống bờ dâu. Không kịp nhìn thấy gì nhưng cô biết rõ bốn tên ghim chặt chân tay cô xuống đất cho một thằng hãm hiếp. Kiệt sức vì vùng vẫy và uất ức cô ngất đi. Khi tỉnh dậy Liên lao ra bờ sông thì bị bọn lính trên đồn đi tuần bắt giữ, giải về nhà.

Mấy hôm sau, thằng Tề long trọng đưa lễ hỏi. “Chẳng còn gì cho Lều nữa, Lều ơi! Giá như anh biết được đời Liên thế này mà đừng đợi chờ”.

Đêm tân hôn, Liên ngập tràn trong nước mắt nhưng vẫn nhìn rõ cử chỉ giả vờ rất sành điệu của cái thằng cô gọi là chồng. Sau những giây phút vồ vập nó ngẩng đầu lên “ờ” một tiếng như ngạc nhiên rồi lại vùi mặt vào cổ cô thì thầm: “Không sao, không sao”.

Mưa gió tơi bời.

Đời người muốn chết cũng chả dễ gì chết được.

Một thời gian sau, khi đã no xôi chán chè, thằng Tề phả hơi rượu nồng nặc đến lợm giọng vào mặt cô vừa kể vừa hô hố cười. Trong vòng tay của nó giá lạnh một tâm hồn đã chết. Nếu chỉ cần thỏa mãn nó có thiếu gì. Nó kể “Vở kịch đêm Bãi Dâu” do nó dàn dựng cho Liên nghe là để trả thù sự giá lạnh của cô và để tự khen mình vốn là bệnh của tất cả những kẻ hợm hĩnh.

Thằng Tề bị du kích bắn chết trong đêm đánh đồn Bãi Dâu.

Hà Lều đưa Liên về chợ Khế ở với người chú ruột. Chú ruột Liên đã ngoài bảy mươi tuổi, râu tóc trắng như cước, da hồng hào, trông cụ như người trong tranh vẽ ông lão với quả đào trường thọ. Người chợ Khế gọi cụ là Cụ Già. Cụ Già bán lạc rang, chuối, bánh đa.

Hà Lều làm đủ mọi việc để cho gia đình ba miệng ăn khấm khá lên. Hoàn cảnh đặc biệt gắn bó họ lại trong tình thương yêu trông cậy lẫn nhau.

Cụ Già qua đời, Liên như cái cây đứt hết rễ. Hà Lều càng thương yêu săn sóc, Liên càng đau xót, héo hắt.

Hà Lều còn lại một mình. Tất cả tình thương yêu vui sống anh đã trút cả vào nấm mộ của Liên rồi. Sáng sáng tiếng chổi của Hà Lều buồn bã cất lên, nhưng nó không xua được những đám mây trong lòng anh cứ vật vờ, trĩu nặng. Những đường gân trên mặt anh căng ra, cam chịu. Thời gian làm cho nó dãn ra, trùng dần xuống. Người ta gọi lão Hà Lều từ bao giờ, không ai nhớ. Mắt lão trân trân nhìn ra cuộc đời nhưng chả mấy khi thần khí sáng lên. Có ai biết trước mặt lão chỉ có một bóng áo trắng trẻ trung, duyên dáng nghiêng đầu, đôi mắt lóng lánh ánh trăng.

Ông Hàm đang ướm thử mấy con én chuẩn bị đóng nắp áo quan bỗng dừng lại gọi ông Nhất và mấy cụ:

 Các ông nhỉ, lão Lều không còn người... cái bát hương... làm thế nào?

Mọi người cùng “ờ” một tiếng: “Để vào quan cho lão”.

Úp bát hương vào rốn cho lão thì đau xót lắm. Từ nay qua thế giới bên kia lão phải tự lo liệu chứ không còn trông cậy vào ai ở dương gian này cúng lễ nữa.

Nhưng có như thế thật thì lão Lều chắc cũng vui lòng. Hàng phố đem cúng cho lão chẳng thiếu thứ gì. Người ta phải dỡ cả cửa và phên liếp đằng trước để đặt lễ. Đầu lợn, gà, bánh cuốn, bánh trôi ai làm hàng gì cúng nấy, còn thì tiền. Tiền thật và tiền âm phủ. Tiền thật thì loại nhỏ còn tiền âm phủ toàn loại 20, 50 ngàn. Đô la âm phủ xanh biếc hàng tập xếp cao ngất nghiêng đổ cả ra xung quanh. Vàng bó từng chồng. Số của cải ấy đủ cho lão sắm nhà lầu xe hơi sung sướng trọn một kiếp nữa. Nếu cộng cả số của hàng phố cúng cho bà Liên và Cụ Già, phải mở tài khoản nơi âm phủ mà gửi vào chứ chốn cực lạc ấy ai dám chắc không có bọn đầu trâu mặt ngựa. Lo cho lão Lều là lo cái nỗi ấy chứ thừa tự thì có gì phải bận tâm.

Nhưng ông Hàm vẫn phải gặp các cụ cao tuổi lần nữa. Bát hương của lão Lều không phải cái bát hương thường vẫn bán ở chợ. Đó là chiếc đỉnh bằng đồng có chân tròn như cái đĩa úp. Cái phần đĩa úp ấy người thợ làm bàn thờ khéo khoét hai tấm gỗ nghiến dầy ghép lại. Thành thử muốn lấy chiếc đỉnh ra phải dỡ cả bàn thờ. Dỡ thì cũng chẳng sao nhưng như thế đích thị là chiếc đỉnh quý, pha đồng đen cũng nên. Để vào quan cho lão, mọi người ở phố biết cả, không khéo có người tham, đào mả lão lên chưa biết chừng. Ông Hàm với tư cách tổ trưởng dân phố kết luận:

- Sau này sao chả có người quét chợ, thế cũng là con cháu lão còn gì, hương hỏa cho lão luôn. Trước mắt nhà ông Nhất, nhà tôi ở gần để mắt trông cái hương hỏa cho lão.

Cũng chả còn cách nào hơn, vả lại dân phố thương tiếc lão Lều lo việc ma chay chứ những cái khác sao cho phải phải thì thôi.

Lão Lều chết được một dạo thì vấn đề vệ sinh phải đem bàn trong một cuộc họp tổ dân phố. Tất nhiên là bàn ở phần cuối, mục linh tinh. Ai cũng kêu đường phố bẩn quá, chợ người tan là chợ ruồi nhặng họp nhưng đến cách giải quyết thì không tìm thấy một “lời vàng ý ngọc” nào cả. Ông Len bây giờ là tổ trưởng dân phố quyết định: Lần lượt, bắt đầu là nhà ông Năm ở đầu phố. Nhà ông Năm đông người sáng sáng nhốn nháo như tổ ong lạc chúa: Người xát thóc, người tráng bánh đa, người chăn lợn, nấu cơm, dọn hàng xén. Đông người đấy nhưng lấy ai ra quét chợ?

Nhà ông Năm chưa quét thì những nhà khác chưa đến lượt. Thế là tắc nước ngay từ đầu lần.

Bẵng đi một mùa mưa.

Chợ chỉ sạch sẽ khi có người kéo lá cọ đi qua hay mưa rào. Ở chợ Khế mưa rả rích, dai dẳng là sự thường. Sau buổi chợ, lá dong, lá rau, vỏ măng và bao nhiêu cái thải ra từ những người muôn ngả mang đến trộn với bùn đất. Ở phố trước khi ăn cơm người ta phải đóng cửa lại. Nhìn ra phố cỗ tiên cũng mất ngon.

Lại họp.

Lần này vấn đề vệ sinh được đưa vào nội dung chính để bàn hẳn hoi. Lại tắc như lần trước. Ông Nha mới hạ lon thiếu tá về hưu thay ông Len đã theo con chuyển nhà về thị trấn, quyết định giao cho đoàn thanh niên. Trong thâm tâm ông tin thằng Thanh chăm chỉ lại sắp vào Đảng thể nào cũng ổn. Biểu quyết 100% nhất trí. Để chắc ăn, ông chỉ đạo Chi đoàn họp, bàn, biểu quyết cũng 100%; Đến khi thực hiện thì số phần trăm đi làm hao nhiều quá. Thanh huy động mãi được thêm ba bạn gái. Đó là lần huy động thành công độc nhất vô nhị. Thanh niên phố phần lớn đi làm mỗi người một nơi. Quên và bận là hai lý do không dễ gì đem ra trách cứ nặng nề. Rút kinh nghiệm, ông Nha không họp nữa mà giao cho Ban quản lý chợ. Không xong. Thành lập “tổ môi trường”, không được. Lạ thế. Ông bèn triệu tập một cuộc họp chỉ duy nhất bàn một việc là vấn đề vệ sinh đường phố. Ông tức lắm. Ông đã phải ngậm bồ hòn làm ngọt suốt buổi họp Hội đồng Nhân dân. Người ta chất vấn ông. Đúng thì đúng rồi nhưng đâu phải ông “không năng động”, “không quan tâm”. Vào họp ông cáu ngay:

- ... Sáng ra ai cũng rửa mặt, thế mà cái mặt phố mấy năm trời không giải quyết được cho sạch sẽ...

Người ta khuyên tổ trưởng bình tĩnh để hàng phố bàn, dân sự không quyền lệnh như bên quân sự được. Ông Nhất giơ tay phát biểu: 

- Theo tôi thì ta nên khuyên anh Dậu người bản Coóc về ở nhà cụ Lều và làm cái công việc của cụ ngày trước. Dậu đi làm thuê kiểu ấy bữa no bữa đói. Cái túp lều dưới gốc trám của anh ta ở nguy hiểm lắm. Mưa gió tháng bảy, một cành trám phang xuống thì oan gia. Tôi đề nghị tổ trưởng dân phố gặp gỡ trao đổi cụ thể với anh Dậu. Chúng tôi sẽ nói thêm, chắc được.

Mọi người vỗ tay ầm ầm. Một hướng giải quyết bất ngờ có lợi nhiều mặt.

Ngay hôm sau, ông Nha và ông Nhất mở cửa nhà lão Lều dẫn Dậu vào. Chẳng nói chẳng rằng, Dậu rút ở thắt lưng ra một thẻ hương châm lửa, cắm cả lên chiếc đỉnh đồng rồi chắp hai tay trước ngực. Chẳng biết anh ta lầm rầm khấn những gì, ông Nha và ông Nhất cùng thấy lòng bồi hồi, bất giác cùng thành kính hướng lên.

H.H.S

 

Văn nghệ Yên Bái số mới

Đất và người Yên Bái qua ảnh

Thư viện video

Các cuộc thi Văn học nghệ thuật

Lượt truy cập

Visitor Counter